Đề Xuất 4/2023 # Amitriptylin Thuốc Chống Trầm Cảm 3 Vòng Có Tác Dụng An Thần # Top 5 Like | Missvnuk.com

Đề Xuất 4/2023 # Amitriptylin Thuốc Chống Trầm Cảm 3 Vòng Có Tác Dụng An Thần # Top 5 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Amitriptylin Thuốc Chống Trầm Cảm 3 Vòng Có Tác Dụng An Thần mới nhất trên website Missvnuk.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Tracuuthuoctay chia sẻ bài viết AMITRIPTYLIN Thuốc chống trầm cảm 3 vòng có tác dụng an thần là thuốc gì? giá thuốc bao nhiêu? chỉ định, cách sử dụng, tác dụng phụ thuốc AMITRIPTYLIN . Ðiều trị trầm cảm, đặc biệt trầm cảm nội sinh (loạn tâm thần hưng trầm cảm). Thuốc có ít tác dụng đối với trầm cảm phản ứng. Ðiều trị chọn lọc một số trường hợp đái dầm ban đêm ở trẻ em lớn (sau khi đã loại bỏ biến chứng thực thể đường tiết niệu bằng các test thích hợp).

AMITRIPTYLIN Thuốc chống trầm cảm 3 vòng có tác dụng an thần

Tên chung quốc tế: Amitriptyline.

Loại thuốc: Thuốc chống trầm cảm 3 vòng có tác dụng an thần.

Viên nén: Amitriptylin hydroclorid 10 mg, 25 mg, 50 mg, 75 mg, 100 mg, 150 mg.

Thuốc tiêm: Amitriptylin 10 mg/ml.

Dược lý học và cơ chế tác dụng

Amitriptylin hấp thu nhanh chóng và hoàn toàn sau khi tiêm bắp 5 – 10 phút và sau khi uống 30 – 60 phút. Với liều thông thường, 30 – 50% thuốc đào thải trong vòng 24 giờ. Amitriptylin chuyển hóa bằng cách khử N – metyl và hydroxyl hóa. Trên thực tế toàn bộ liều thuốc đào thải dưới dạng các chất chuyển hóa liên hợp glucuronid hoặc sulfat. Một lượng rất nhỏ amitriptylin không chuyển hóa được bài tiết qua nước tiểu. Amitriptylin phân bố rộng khắp cơ thể và liên kết nhiều với protein huyết tương và mô. Nửa đời thải trừ của amitriptylin khoảng từ 9 đến 36 giờ. Có rất ít amitriptylin ở dạng không chuyển hóa đào thải qua nước tiểu. Có sự khác nhau nhiều về nồng độ thuốc trong huyết tương giữa các cá nhân sau khi uống một liều thông thường. Lý do của sự khác biệt này là nửa đời trong huyết tương của thuốc thay đổi từ 9 đến 50 giờ giữa các cá nhân. Amitriptylin không gây nghiện.

Ðiều trị trầm cảm, đặc biệt trầm cảm nội sinh (loạn tâm thần hưng trầm cảm). Thuốc có ít tác dụng đối với trầm cảm phản ứng.

Ðiều trị chọn lọc một số trường hợp đái dầm ban đêm ở trẻ em lớn (sau khi đã loại bỏ biến chứng thực thể đường tiết niệu bằng các test thích hợp).

Chống chỉ định AMITRIPTYLIN Thuốc chống trầm cảm 3 vòng có tác dụng an thần

Mẫn cảm với amitriptylin.

Không được dùng đồng thời với các chất ức chế monoamin oxydase.

Không dùng trong giai đoạn hồi phục ngay sau nhồi máu cơ tim.

Ðộng kinh không kiểm soát được; bí tiểu tiện và phì đại tuyến tiền liệt; suy giảm chức năng gan; tăng nhãn áp góc đóng; bệnh tim mạch; bệnh cường giáp hoặc đang điều trị với các thuốc tuyến giáp.

Người bệnh đã điều trị với các chất ức chế monoamin oxydase, phải ngừng dùng thuốc này ít nhất 14 ngày, mới được bắt đầu điều trị bằng amitriptylin.

Dùng các thuốc chống trầm cảm 3 vòng cùng với các thuốc kháng cholinergic có thể làm tăng tác dụng kháng cholinergic.

Các thuốc chống trầm cảm 3 vòng qua nhau thai vào thai nhi. Amitriptylin, nortriptylin gây an thần và bí tiểu tiện ở trẻ sơ sinh.

Tốc độ giảm các triệu chứng từ vài ngày đến vài tuần phụ thuộc vào tốc độ giảm nồng độ thuốc ở trẻ sơ sinh. Vì vậy trong ba tháng cuối thai kỳ, amitriptylin chỉ được dùng với chỉ định nghiêm ngặt, cần cân nhắc lợi ích của người mẹ và nguy cơ cho thai nhi.

Amitriptylin bài tiết vào sữa mẹ với lượng có thể ảnh hưởng đáng kể cho trẻ em ở liều điều trị. Cần phải quyết định ngừng cho con bú hoặc ngừng thuốc, có tính đến tầm quan trọng của thuốc đối với người mẹ.

Tác dụng không mong muốn (ADR)

Hướng dẫn cách xử trí ADR

Hiếm gặp tăng mệt mỏi, buồn ngủ vào buổi sáng, và cả hạ huyết áp thế đứng vào buổi sáng nếu người bệnh dùng một liều duy nhất vào lúc đi ngủ. Sốt cao đã xảy ra khi sử dụng thuốc chống trầm cảm 3 vòng cùng với các thuốc kháng cholinergic hoặc các thuốc an thần kinh, đặc biệt khi thời tiết nóng.

Theo dõi khi ngừng thuốc: Ngừng thuốc đột ngột sau khi điều trị kéo dài có thể gây đau đầu, buồn nôn, khó chịu toàn thân. Giảm liều từ từ có thể gây ra các triệu chứng thoảng qua như kích thích, kích động, rối loạn giấc ngủ và mơ; các triệu chứng này thường hết trong vòng 2 tuần.

Một số rất ít trường hợp hưng cảm xảy ra từ 2 đến 7 ngày sau khi ngừng việc điều trị dài ngày với các thuốc chống trầm cảm 3 vòng.

Thuốc tiêm amitriptylin hydroclorid phải bảo quản ở nhiệt độ dưới 40oC, tốt nhất là 15 – 30oC; tránh để đông lạnh. Thuốc tiêm amitriptylin hydroclorid cũng phải bảo quản tránh ánh sáng vì có thể tạo thành ceton và tủa nếu để tiếp xúc với ánh sáng. Các viên nén amitriptylin hydroclorid phải bảo quản trong đồ đựng kín ở nhiệt độ 15 – 30oC. Tránh tiếp xúc với nhiệt độ trên 30oC.

Không được pha loãng thuốc với nước ép nho hoặc đồ uống có chứa carbonat.

Nguồn dược thư quốc gia

Tham khảo hình ảnh các dòng thuốc AMITRIPTYLIN Thuốc chống trầm cảm 3 vòng có tác dụng an thần

Vui lòng đặt câu hỏi về bài viết AMITRIPTYLIN Thuốc chống trầm cảm 3 vòng có tác dụng an thần, chúng tôi sẽ trả lời nhanh chóng.

Nguồn uy tín: Tra Cứu Thuốc Tây không đưa ra các lời khuyên, chẩn đoán hay các phương pháp điều trị y khoa.

Latest posts by Cao Thanh Hùng ( see all)

Ngộ Độc Chú Ý Với Thuốc Chống Trầm Cảm 3 Vòng (Tcas)

TCAs chiếm vị trí quan trọng trong các loại thuốc được sử dụng trong các mưu toan tự tử cũng như các loại thuốc này nổi tiếng là nguy hiểm.NGHIÊN CỨU HỒI CỨU :

Chúng tôi nghiên cứu 145 hồ sơ bệnh án tại Khoa cấp cứu các trường hợp mưu toan tự tử bằng thuốc chống trầm cảm từ 1 tháng 1 năm 1976 đến 31 tháng 8 năm 1983.

* Tần suất: trong thời gian trên có 3909 bệnh nhân được nhập viện vì mưu toan tự tử bằng thuốc, trong đó 4 % dùng thuốc chống trầm cảm. * Giới tính: 110 nữ, 35 nam. * Loại thuốc : 2 loại chính được người bệnh chọn để tự tử là clomipramine và amitriptyline ( Bảng 1 ) . Sơ đồ I chỉ ra liều lượng giả định người bệnh đã uống, hoặc do người bệnh khai ra, hoặc do nhận định từ vỏ bao thuốc tìm thấy được. Liều lượng thấp hoặc vừa phải dưới 1,5 g gặp nhiều nhất ( 49,6% ).

Liều lượng không biết 55 trường hợp (37,9%)

Số ca

50

40

37,9%

30

20

11,7%

0 4,1% 1.4%

0 1 2 3 4 5

liều lượng uống tính theo gram

Bảng I Phân bố theo loại thuốc:

CÁC THUỐC UỐNG TỰ TỬ PHỐI HỢP Trong số 71 bệnh nhân có khoảng 1 / 2 trường hợp uống thuốc chống trầm cảm chung với các loại thuốc khác hoặc với rượu ( Bảng II ).

Bảng II. Thuốc uống tự tử phối hợp :

1/. Rối loạn ý thức :

48 lần ghi nhận, khoảng 33% số bệnh nhân có rối loạn ý thức. Các rối loạn ý thức xuất hiện nhanh, thời gian ít hơn 6 giờ ở 88% trường hợp và diễn ra trong thời gian ngắn ( 48 giờ ). 38 / 48 trường hợp các rối loạn ý thức xảy ra ở người uống nhiều loại thuốc tự tử, và chỉ có 10 lần rối loạn ý thức ở người dùng thuốc chống trầm cảm tự tử. Ơ những bệnh nhân này thì 7 / 8 lần là những bệnh nhân uống nhiều hơn 1,5 g. Ức chế hô hấp luôn kèm theo các rối loạn ý thức. 35 bệnh nhân phải được hỗ trợ hô hấp từ 1 đến 5 ngày, trong đó 31 bệnh nhân phải thở máy dưới 24 giờ.

Bảng III . Tần xuất các biến chứng chủ yếu trong ngộ độc TCAs

2/. Cơn co giật:

Xảy ra ở 3 bệnh nhân và chỉ quan sát được ở bệnh nhân ngộ độc với các thuốc chống trầm cảm. Tất cả các cơn co giật chỉ xảy ra trong 12 giờ đầu sau ngộ độc. Những bệnh nhân này không có thay đổi trên ECG.

3/. Các rối loạn tim mạch : 29 bệnh nhân ( 20 % ) có nhịp tim nhanh trên 100 lần/ phút. Tụt huyết áp xảy ra ở 6 bệnh nhân. Có các rối loạn dẫn truyền sau : * 16 block nhánh hoàn toàn, trong đó 9 trường hợp block nhánh phải và 7 block nhánh trái * 4 block nhĩ – thất giai đoạn I. Tất cả các thay đổi ECG xuất hiện sớm vì có tới 98 % trường hợp ngay khi tới cấp cứu và tất cả đều xuất hiện trong 24 giờ đầu nhập viện. Các rối loạn dẫn truyền xảy ra ở 70 % bệnh nhân trên 60 tuổi. Trái lại, dưới 60 tuổi chỉ có dưới 10 % bệnh nhân. Sự khác biệt này có ý nghĩa rất cao. Tần xuất các biến chứng tim mạch xảy ra cũng tăng như liều lượng thuốc uống vào.

Có 1 trường hợp ngưng tim duy nhất xảy ra sau 4 giờ nhập viện ở bệnh nhân uống clomipramine không rõ số lượng. ECG lúc vào Khoa cấp cứu hồi sức bình thường. Bệnh nhân này chuyển sang rung thất một cách đột ngột. Cấp cứu kết hợp với truyền muối lactate phục hồi hoàn toàn.

Duy nhất 1 trường hợp tử vong là nữ 58 tuổi, bị ngộ độc amitriptyline kèm với benzodiazépine và tới Khoa hồi sức trong tình trạng hôn mê. Tử vong đột ngột vào ngày thứ 3 trong tình trạng thiếu oxy – giảm CO2 huyết vì có thể thuyên tắc phổi , không có bất thường ECG.

Trong công trình hồi cứu này chúng tôi quan tâm chủ yếu tới các biến chứng tim mạch vì rằng đây là các biến chứng nặng trong ngộ độc thuốc chống trầm cảm đòi hỏi có phương tiện theo dõi chăm sóc liên tục . Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy giống như các báo cáo trong y văn, các biến chứng này không thường xuyên ( 18 % bệnh nhân ) nếu chúng ta loại bỏ các trường hợp nhịp tim nhanh không kịch phát vì khó nhận định chắc chắn do các thuốc imipramine gây ra trong bối cảnh cảm xúc ở người có mưu toan tự tử và các rối loạn tái cực là dấu hiệu ngấm thuốc hơn là ngộ độc.

Tuy nhiên, mối lo ngại của các rối loạn trên dẫn tới thái độ chăm sóc liên tục một số lượng lớn những bệnh nhân không có các biến chứng trong một thời gian khó xác định .

Chắc chắn có một mối quan hệ giữa liều lượng thuốc uống vào và các biến chứng như trong nghiên cứu của các tác giả Y.Bouffard và B. Palmier và nghiên cứu của chúng tôi cũng chứng minh điều đó. Việc định lượng nồng độ thuốc trong máu không thực hiện trong nghiên cứu này, nhưng kết quả định lượng trong nghiên cứu của M.T. Boehnert và F.H. Levejoy không mang lại bất kỳ lời khuyên nào. Trái lại, phức hợp QRS giãn rộng đối với các tác giả trên có vẻ là một dấu hiệu có giá trị rất lớn để bắt buộc theo dõi ECG một cách chặt chẽ. Chúng tôi không tìm thấy mối quan hệ qua lại giữa độ giãn rộng của phức hợp QRS và các cơn co giật xảy ra, nhưng có thể do việc kết hợp các loại thuốc thường xuyên sử dụng làm ngăn cản sự xuất hiện của các dấu chứng thần kinh. Trái lại, điều này dẫn tới sự đối ngược của các dữ kiện dược động học các loại thuốc chống trầm cảm mà thời gian bán hủy của chúng rất dài cũng như đối ngược với thái độ hồi sức cấp cứu. Điều hết sức chú ý là trong nhóm nghiên cứu 145 bệnh nhân của chúng tôi không có biến chứng tim mạch nào bắt đầu ngay sau 24 giờ đầu nhập viện. Lý do còn chưa rõ vì những thuốc này tồn tại nhiều ngày trong nước tiểu và trong máu. Đối với một số tác giả thì còn có sự gia tăng điều tiết dịch của các cơ quan do các thuốc chống trầm cảm gây nên mà cơ chế hoàn toàn chưa được biết đến.

Đối với chúng tôi, điều quan trọng rõ ràng là các biến chứng tim mạch xảy ra trong 24 giờ đầu ngộ độc TCAs đòi hỏi chăm sóc giám sát monitoring trong suốt thời gian này. Chính sự giãn rộng phức hợp QRS chứng tỏ là dấu hiệu rõ nhất của tác động tim mạch trong ngộ độc và là dấu hiệu rõ nhất để duy trì chăm sóc giám sát monitoring. Điều luôn luôn quan trọng là biết được liều lượng thuốc bệnh nhân đã uống vì đó là một dữ kiện định hướng báo hiệu xuất hiện các biến chứng. Luôn luôn quan trọng nhiều hơn nữa là phòng ngừa hơn chữa trị, chúng tôi mong muốn trong điều trị những bệnh nhân có nguy cơ uống thuốc tự tử trong điều kiện do bệnh nhân giữ chỉ kê toa đúng số lượng TCAs cần dùng , tránh hoàn toàn việc kê toa dài ngày.

Tóm tắt :

Sau uống ngộ độc TCAs, tần suất các biến chứng tim mạch càng nhiều khi liều lượng thuốc càng tăng . Độ giãn rộng của phức hợp QRS của bệnh nhân là dấu hiệu chỉ định theo dõi monitoring.

Các biến chứng tim mạch xảy ra sớm, trong 145 trường hợp nghiên cứu không có biến chứng nào sau 24 giờ nhập viện.UỐNG QUÁ LIỀU LƯỢNG THUỐC CHỐNG TRẦM CẢM 3 VÒNG ( TCAs ) : nhận biết và xử trí

Với liều lượng nhiều hơn 1 g thuốc TCAs thường xảy ra ngộ độc cấp tính và có thể gây tử vong do loạn nhịp tim, hạ huyết áp hoặc không kiểm soát được các cơn co giật. Nồng độ thuốc trong huyết thanh nghi ngờ khi uống quá liều vừa vì thông tin không rõ ràng của người bệnh hoặc của người thân và vừa vì các biểu hiện sinh học do dùng liều cao của các hợp chất ( TCAs ) này còn ít được hiểu biết. Tuy nhiên, nồng độ huyết thanh của hợp chất gốc và hoạt động chuyển hóa của chúng cung cấp từ những thông tin đặc biệt về sự trầm trọng của quá liều lượng ít hơn những thông tin có thể hy vọng. Trong quá liều nghiêm trọng, nồng độ huyết thanh lớn hơn 1,000 ng/mL kèm theo thời gian QRS tăng tới 0,10s hoặc hơn. Tuy nhiên hậu quả nặng nề của quá liều TCAs có thể xảy ra với nồng độ huyết thanh dưới 1,000ng/ mL và với QRS kéo dài ít hơn 0,10s.

Trong quá liều cấp tính, hầu như các triệu chứng tiến triển trong 12 giờ đầu:

Tác động chống muscarini nổi bật là khô niêm mạc, da ấm, nhìn mờ, giảm nhu động ruột và thường có bí tiểu. Hoặc ức chế hệ thần kinh trung ương (từ ngủ gà tới hôn mê ) hoặc sảng kích động có thể xảy ra. Tác động ức chế hệ thần kinh trung ương của TCAs tiềm tàng bởi sự hấp thu đồng thời rượu, các thuốc nhóm benzodiazépine và các thuốc an thần gây ngủ khác. Các cơn co giật cũng có thể xảy ra và trong trường hợp quá liều trầm trọng, ngưng hô hấp cũng có thể xảy ra.

Ngộ độc tim mạch hiện diện là nguy hiểm đặc biệt. Hạ huyết áp thường xảy ra dù bệnh nhân ở tư thế nằm. Có thể xuất hiện các loại loạn nhịp khác nhau bao gồm nhịp nhanh trên thất, nhịp nhanh thất hay rung thất và các mức độ block kể cả block hoàn toàn.

Xử trí cấp cứu :

Nền tảng trị liệu quá liều TCAs bao gồm gây nôn ói nếu bệnh nhân đang ở tình trạng báo động và rửa dạ dày ruột nếu bệnh nhân không trong tình trạng trên. Vì nhu động ruột có thể chậm lại nên có thể có ích khi dùng 30g than hoạt với thuốc tẩy nhẹ như magnesium citrate 120mL nhằm giảm sự hấp thu TCAs còn lại trong ruột.

Chăm sóc hỗ trợ tim mạch nên được tiến hành nếu cần thiết. Bệnh nhân có suy hô hấp đòi hỏi thở máy. Hạ huyết áp phải truyền dịch ( tuy nhiên chỉ định này phải thận trọng nếu bệnh nhân có suy tim ). Trường hợp tụt huyết áp kéo dài hoặc có suy tim các chất ức chế như epinephrine hay pheylephrine có thể được chọn lựa vì chúng làm mất tác dụng anti – ?1 – adrenergic của thuốc chống trầm cảm.

Một số bệnh nhân loạn nhịp tim QRS giãn rộng hơn 0,10s hoặc nồng độ TCAs huyết thanh cao hơn 1,000 ng/mL đòi hỏi tiếp tục theo dõi tốt hơn bằng monitoring trong ICU. Tốt hơn là thực hiện chia theo dõi theo từng kỳ và ngưng monitoring khi QRS trở về bình thường.

Nhịp xoang nhanh thông thường không đòi hỏi điều trị. Nhịp xoang nhanh trên thất góp phần làm thiếu máu cơ tim hay hạ huyết áp có thể chỉ định dùng máy DC khử rung. Nên tránh dùng digoxine vì có thể làm nhanh thêm block tim nhưng propranolol tỏ ra an toàn trong nhịp nhanh trên thất tái phát. Dùng máy DC khử rung là một chọn lựa trong nhịp nhanh thất hay rung tim. Dùng phenytoine có thể rút ngắn loạn nhịp thất. Nếu sử dụng lidocaine có khả năng làm tăng cơn co giật. Nếu lidocaine không đáp ứng trong phòng ngừa loạn nhịp thì chọn dùng propranolol hay bretylium. Nên tránh dùng quinidine, procainamide và disopyramide vì có thể làm kéo dài QRS và có thể làm tăng block tim khi ngộ độc TCAs. Nếu block tim mức độ II hoặc III có thể chế ngự được với việc đặt tạm thời máy tạo nhịp. Physostigmine thường không hiệu quả trong hầu hết các trường hợp loạn nhịp tim do TCAs.

Ngộ độc hệ thần kinh trung ương cũng có thể diễn ra tình trạng xấu hoặc tử vong trong ngộ độc TCAs. Thông thường bệnh nhân sảng cần có môi trường yên tĩnh và an toàn, trạng thái kích động có thể phải cố định. Đối với bệnh nhân không kiểm soát được sảng đe dọa kết quả điều trị có thể dùng benzodizépine liều thấp. Vì độc tính và tác dụng ngắn nên physostigmine thường được khuyên không dùng như một thuốc điều trị.

Một biến chứng y khoa khó chịu nhất trong quá liều TCAs là các cơn co giật. Thuốc hàng đầu chỉ định đối với cơn co giật do TCAs là một trong hai benzodizépam sau : dizépam hoặc lorazépam. Dizépam từ 5 đến 10mg IV với tốc độ 2mg/ phút. Có thể nhắc lại mỗi 5 – 10 phút cho tới khi cơn co giật được kiểm soát. Nguy cơ ngưng hô hấp thấp nhất nếu IV benzodiazépine chậm, nhưng phải có đủ thiết bị theo dõi. Lorazépam 1 – 2mg IV trong vài phút. Lợi điểm của Lorazépam là hiệu quả sinh học dài hơn diazépam trong điều trị cấp cứu ( hàng giờ so với từng phút ) vì nó phân bố rải rác lượng nhỏ và có lẽ khuynh hướng ức chế hô hấp ít hơn. Nếu dùng benzodiazépam thất bại có thể dùng phenytoine tổng liều 15mg/Kg nhanh không quá 50mg/phút. Dùng quá nhanh phénytoine là nguyên nhân tụt huyết áp trầm trọng.

Lợi tiểu mạnh và thẩm phân phúc mạc không có giá trị vì TCAs gắn vào protéine và màng tế bào và có thể làm trầm trọng huyết động học vốn đã không bền vững. Truyền máu có thể có vai trò giới hạn trong trường hợp cực kỳ trầm trọng, nhưng chỉ định này phải được tiến hành khi có kinh nghiệm.

Theo Hanbook of Psychiatric Drug Therapy, Fourth Edition, George W. Arana. Jerold F. Rosenbaum. Trang 98 – 100.

Bs PHẠM VĂN TRỤ BS CK1, phó Giám đốc BVTT

Thuốc Chống Trầm Cảm: Không Lợi Ích, Nhiều Tác Dụng Phụ

Gs Ts Sube Banerjee , Viện tâm thần ĐH hoàng gia London , chuyên gia tâm thần người già “ngạc nhiên với kết quả rõ ràng, không mập mờ trong kết quả nghiên cứu này”. Từ đó các tác giả khuyến cáo các bác sĩ điều trị nên điều chỉnh lại phương án điều trị trầm cảm ở người già và “xem xét lại việc kê toa thuốc chống trầm cảm”, đặc biệt với các loại thuốc chống trầm cảm thường dùng trong trầm cảm ở bệnh nhân sa sút tâm thần Alzheimer.

Công trình này do HTA-SADD (Health Technology Assessment Study of the Use of Antidepressants for Depression in Dementia) tiến hành trên 326 bệnh nhân (tuổi trung bình 79) từ tháng 1/2007 đến tháng 12 / 2009 tại 9 trung tâm dịch vụ tâm thần dành cho người cao tuổi. Tất cả bệnh nhân đều có chẩn đoán trầm cảm kèm theo trong thời gian 4 tuần hoặc hơn và điểm số đánh giá theo Thang lượng giá trầm cảm ở người sa sút tâm thần (Cornell Scale for Depression in Dementia = CSDD) từ 8 điểm trở lên. Bệnh nhân được dùng ngẫu nhiên 150 mg sertraline ( 107 bệnh nhân, 68 % nữ ) và 45 mg mirtazapine (108 bệnh nhân, 71 % nữ ) và giả dược (111 bệnh nhân , 64 % nữ) mỗi ngày. Mục tiêu nghiên cứu đầu tiên là điểm số CSDD đánh giá vào tuần lễ thứ 13, mục tiêu thứ 2 là điểm số CSDD và các tác dụng phụ ở tuần lễ thứ 39.

Nghiên cứu này đăng trên tạp chí Lancet 18 tháng 7/2011

Thế giới hiện nay có khoảng 35 triệu người bị sa sút tâm thần và trong số này hơn 20 % bị trầm cảm. “Trầm cảm là một trong những bệnh nặng đi kèm sa sút tâm tâm thần và là mối quan tâm lo ngại trong điều trị mà chúng ta chưa chứng minh được”. Mục đích nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả và tính an toàn của 2 loại thuốc chống trầm cảm được dùng phổ biến nhất trong điều trị trầm cảm ở bệnh nhân sa sút tâm thần.

Kết quả như sau: * Điểm số CSDD ở tuần lễ thứ 13 đều giảm ở cả 3 nhóm bệnh nhân nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm bệnh nhân dùng sertraline và nhóm dùng mirtazapine so với nhóm bệnh nhân dùng giả dược (1.17 và 0.01) hoặc so sánh các nhóm với nhau (1.16) * Không có sự khác biệt về điểm số CSDD giữa các nhóm vào thời điểm đánh giá tuần lễ thứ 39. * Có sự khác biệt về các tác dụng phụ có hại giữa nhóm bệnh nhân dùng giả dược và nhóm bệnh nhân dùng sertraline (26 % – 43 %; P=.010) và nhóm bệnh nhân dùng mirtazapine (41 % ; P= .031).

Các tác phụ có hại là các phản ứng dạ dày ruột, đặc biệt gặp nhiều nhất là nôn ói ở nhóm bệnh nhân dùng sertraline, chóng mặt và buồn ngủ gặp ở nhóm bệnh nhân dùng mirtazapine. So sánh với cả 2 nhóm bệnh nhân dùng thuốc, nhóm bệnh nhân dùng giả dược ít bị các tác dụng phụ có hại (P=.003) * 15 bệnh nhân tử vong trong thời gian 39 tuần nghiên cứu, mỗi nhóm 5 bệnh nhân. Theo Ts Banerjee thông tin này nhằm cho chúng ta suy nghĩ trước khi sử dụng thuốc chống trầm cảm cho bệnh nhân sa sút tâm thần, mục đích có thể cải thiện các triệu chứng trầm cảm ẩn chứa trongviệc chăm sóc bệnh nhân sa sút tâm thần. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu đề xuất rằng nên dè dặt dùng thuốc chống trầm cảm cho những bệnh nhân điều trị mà các triệu chứng trầm cảm không cải thiện trong thời gian 3 tháng vì nguy cơ tác dụng phụ có hại của thuốc chống trầm cảm hoặc vì tình trạng bệnh (sa sút tâm thần) trầm trọng.

Ts Henry Brodaty (Trung tâm nghiên cứu Brain and Aging Research Program and Primary Dementia , University of New South Wales) Sydney Australia nhận xét đây là một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng lớn về sử dụng thuốc chống trầm cảm ở bệnh nhân sa sút tâm thần từ trước đến nay và bằng cả những nghiên cứu trước kia cộng lại.

Mặc dù với kết quả tiêu cực nhưng những phát hiện này là rất quan trọng vì trầm cảm phổ biến ở bệnh nhân sa sút tâm thần và các kết quả của các nghiên cứu trước kia ‘không thuyết phục”. Thuốc chống trầm cảm không hiệu quả ở bệnh nhân sa sút tâm thần đặt ra câu hỏi có hay không một cơ chế bệnh lý khác trong trầm cảm ở bệnh nhân Alzheimer.

Ts Brodaty chỉ ra rằng kết quả nghiên cứu này khuyến cáo ” phương pháp chăm sóc từng bước thận trọng, nếu không thành công với việc theo dõi can thiệp tâm lý xã hội thì hay tiếp đến các can thiệp khác ( như dùng thuốc chống trầm cảm ). Ts Brodaty cũng nhấn mạnh nghiên cứu này không chủ trương loại bỏ thuốc chống trầm cảm ở bệnh nhân sa sút tâm thần. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy sự cần thiết sáng tạo thay đổi thuốc trong điều trị trầm cảm ở bệnh nhân sa sút tâm thần và sử dụng các phương pháp điều trị dựa trên chứng cứ khoa học và kết hợp các chuyên khoa khác trong điều trị.

Thực tế lâm sàng chúng ta thấy bệnh nhân sa sút tâm thần có thể có nhiều triệu chứng trầm cảm và nên chọn lựa, cân nhắc loại thuốc chống trầm cảm nào ít tác dụng phụ nhất, hiệu quả cao, phù hợp với thực trạng bệnh của bệnh nhân. Ví dụ bệnh nhân đang bị một loại bệnh nào khác kèm theo, các thuốc chuyên khoa tâm thần khác đã và đang được dùng (trong đó có thuốc chống trầm cảm mang lại ít hiệu quả và các loại thuốc khác có thể không thật sự cần thiết). Vấn đề là bệnh nhân cao tuổi có biểu hiện buồn rầu, không muốn “can dự” vào công việc , ngủ ít, kém tập trung suy nghĩ, quên những sự việc mới xảy ra , … được cho là bình thường nên con cháu và bác sĩ chuyên khoa cũng khó phát hiện trầm cảm. Kinh nghiệm cũng đã chứng minh cần thiết phát hiện sớm trầm cảm và thời gian sử dụng thuốc chống trầm cảm người cao tuổi bị sa sút tâm thần không nên kéo dài.

Bs Phạm Văn Trụ. BV Tâm thần Tp Hồ Chí Minh

TÀI LIỆU THAM KHẢO:1. No benefit, more side effects indicate clinicians should reconsider use. Deborah Brauser. Medscape Medical News. Psychiatry 2. Depression in Later Life a Harbinger of Dementia. Fran Lowry. Medscape Medical News. Psychiatry

Giảm Tác Dụng Phụ Của Thuốc Chống Trầm Cảm Lên Đời Sống Tình Dục

Trầm cảm có thể làm giảm ham muốn tình dục của bạn, một số loại thuốc thường được sử dụng để điều trị bệnh trầm cảm cũng có thể ảnh hưởng đến ham muốn tình dục. Tác dụng phụ lên tình dục của thuốc chống trầm cảm bao gồm giảm ham muốn tình dục, rối loạn cương dương và khó đạt cực khoái. Nếu bạn đang dùng thuốc chống trầm cảm và thấy rằng những loại thuốc này đang phá hỏng đời sống tình dục của bạn, bạn nên nỗ lực để thay đổi điều đó. Giảm tác dụng phụ lên đời sống tình dục của thuốc chống trầm cảm Không phải tất cả các phương pháp đều phù hợp với tất cả mọi người, vì vậy có thể sẽ cần thử một vài lần để tìm ra biện pháp phù hợp với bạn. Tuy nhiên, hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn, bởi vì một số phương pháp đòi hỏi bạn phải uống thuốc theo đơn hoặc bổ sung thêm thuốc.1. Dùng liều thấp hơn Với hướng dẫn của bác sĩ, bạn có thể giảm liều thuốc chống trầm cảm của bạn đủ để giảm tác dụng phụ tình dục trong khi vẫn giảm bớt các triệu chứng trầm cảm của bạn. Ví dụ, các nghiên cứu đã chứng minh rằng chỉ cần dùng liều từ 5 hoặc 10 mg (mg Prozac (fluoxetine) đã có thể làm giảm được các triệu chứng trầm cảm và gặp ít tác dụng phụ lên đời sống tình dục hơn so với việc dùng 20 mg.2. Uống thuốc của bạn sau khi quan hệ tình dục Lên kế hoạch một số loại thuốc nhất định, chẳng hạn như Zoloft (sertraline) và Anafranil (clomipramine) ngay sau thời điểm bạn quan hệ tình dục có thể là một cách giúp giảm tác dụng phụ của thuốc. Với cách này, bạn sẽ quan hệ tại thời điểm mà lượng thuốc trong cơ thể ở ngưỡng thấp nhất và giảm được tối đa các tác dụng phụ của thuốc. Nói cách khác, nếu bạn và bạn tình có xu hướng quan hệ vào buổi tối, hãy tập thói quen dùng thuốc chống trầm cảm vào ban đêm.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Amitriptylin Thuốc Chống Trầm Cảm 3 Vòng Có Tác Dụng An Thần trên website Missvnuk.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!