Đề Xuất 4/2023 # Rối Loạn Trầm Cảm (Major Depressive Disorder) # Top 13 Like | Missvnuk.com

Đề Xuất 4/2023 # Rối Loạn Trầm Cảm (Major Depressive Disorder) # Top 13 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Rối Loạn Trầm Cảm (Major Depressive Disorder) mới nhất trên website Missvnuk.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Cathy là một luật sư vừa mới được thăng chức thành cổ đông năm ngoái. Trong công ty, cô được coi là một trong những nguời trẻ tuổi đầy hứa hẹn nhất. Thế nhưng mặc cho những thành tựu mà mình đạt được, Cathy thường xuyên nghi ngờ về khả năng của bản thân và cho rằng mình không xứng đáng với chức vụ vừa nhận được. Hơn cả chuyện thấy chán nản, mệt mỏi, cô còn cảm giác mình đang tê dại dần đi. Mấy tháng vừa qua cô mỏi mệt và khó chịu với mọi thứ một cách bất bình thường. Cảm xúc của cô càng trở nên tệ hại hơn khi một khách hàng của công ty mà cô chịu trách nhiệm đổi sang một công ty khác. Dù quyết định chuyển công ty nằm ngoài vòng điều khiển của cô nhưng Cathy không ngừng tự trách chính mình. Cô giải nghĩa sự kiện này như một tấm gương phản chiếu sự bất lực của mình trong công việc dù những khách hàng khác của cô đều khen ngợi khả năng làm việc và những cổ đông lâu năm đều có những lời nói tích cực dành cho cô.

Cathy lúc nào cũng mong được đi làm và cô thực sự yêu thích công việc của mình. Nhưng kể từ khi vị khách đó chuyển công ty, thì chuyện đi làm trở thành một gánh nặng không thể chịu nổi với cô. Cathy không thể nào tập trung vào công việc được và thay vào đó cô suốt ngày nghiền ngẫm về sự bất lực của mình. Dần dà cô thường gọi cáo ốm và dành hầu hết thời gian ngồi ở trên giường nhìn đăm đăm cái TV mà không để ý chương trình gì đang chiếu trên đó và cô hầu như không ra khỏi nhà. Cathy thường xuyên cảm thấy cả người lờ đờ thiếu sức sống nhưng không thể nào ngủ được, khẩu vị cũng mất đi. Bạn thân lo lắng gọi điện cô cũng chả buồn nhấc máy mà chỉ ngồi đó thụ động nghe tin nhắn để lại trên máy bàn. Cô không muốn làm bất kỳ thứ gì, cũng không muốn nói chuyện với ai. “Cuộc sống đã đánh mất đi ý nghĩa cũng như sự thú của nó. Công việc làm không tốt, ngay cả các mối quan hệ cũng xử sự không xong. Mình đáng bị cô độc như thế”. Cô nghĩ.

Cathy nghĩ các mối quan hệ xã hội của cô là tai họa và dường như mọi chuyện chẳng hề chuyển biến theo chiều hướng tốt đẹp nào. Cô ly dị với chồng đã năm năm và người bạn trai gần đây nhất cũng đã có bạn gái mới. Cô đã cố gắng đến tuyệt vọng mong muốn bản thân mình trở nên năng động hơn một tý nhưng dần dà cô chả còn quan tâm nữa. Mọi chuyện dường như trở nên vô vọng. Mặc dù cô thường hay đến các buổi tiệc của công ty nhưng dường như cô không thuộc về nơi đó. Ai cũng có đôi có cặp chỉ có cô là lẻ loi một mình. Mọi nguời không ai hiểu sự cô đơn sâu thẳm ấy và dường như mọi chuyện sẽ khá hơn nếu cô chết đi. Mặc dù cô thường suy nghĩ đến việc tự tử nhưng cô lại sợ điều đó sẽ khiến cho mọi thứ trở nên tồi tệ hơn bây giờ. Cathy được chẩn đoán là mắc rối loạntrầm cảm nặng.

Có nhiều người nghĩ rằng mất đi khách hàng, lại gặp phải chuyện người yêu cũ có người yêu mới mà bản thân vẫn đang lẻ loi một mình ai mà chả buồn? Tại sao lại bảo cô ấy mắc chứng trầm cảm? Đúng vậy, làm sao chúng ta phân biệt được giữa trầm cảm và nỗi buồn bình thường?

Trong cuốn Abnormal Psychology mà tôi đang sử dụng có liệt kê ra cách phân biệt giữa rối loạn trầm cảm và nỗi buồn thông thường. Trong đó có những điểm chính như sau. Với những người bị rối loạn trầm cảm.

1. Tâm trạng thay đổi ngày càng nặng nề và tồi tệ trong mọi tình huống. Tâm trạng và cảm xúc của người đó không cải thiện , dù cho chỉ là tạm thời, khi anh/cô ta tham gia các hoạt động mà giải trí hay gây cười.

2. Tâm trạng thay đổi mà không có bất kỳ sự kiện hay nguyên nhân nào xảy ra trước đó, hoặc sự việc không tồi tệ đến mức khiến cảm xúc của họ bất ổn cực kỳ đến như vậy.

3. Tâm trạng chán nản, mệt mỏi buồn bã đi cùng với việc người đó không thể hoạt động bình thường trong các hoạt động xã hội và việc làm. Ngay cả những chuyện đơn giản nhất dường như trở nên quá sức với anh/cô ta.

5. Sự thay đổi tâm trạng khác hẳn với nỗi buồn bình thường. Nó có thể rất “lạ” cảm giác như bản thân bị nuốt chửng bởi những đám mây mù hoặc chìm sâu trong những hố đen không lối thoát.

“Trầm cảm không phải là khi bạn thấy buồn vì mọi thứ không xảy ra theo ý bạn mà là bạn thấy buồn mặc cho mọi việc vẫn đang diễn biến tốt đẹp.” (Depression is not when you feel sad that everything goes wrong. Depression is when you feel sad even if everything is going right) – Kevin Breel, một nghệ sĩ hài đã dùng câu nói này để khái quát những trải nghiệm của anh với chứng rối loạn này.

Vậy thì những triệu chứng đi kèm được đề cập ở phần số 4 là gì? Rối loạn trầm cảm có rất nhiều rất nhiều triệu chứng nghiêm trọng được chia ra vào bốn hạng mục khác nhau : cảm xúc, nhận thức, sinh lý và hành vi. Chúng ta sẽ khám phá các triệu chứng dưới mỗi hạng mục này sau đây.

1. Triệu chứng của cảm xúc:

Tâm trạng chán nản, khó chịu là triệu chứng thông thường nhất và dễ thấy nhất của chứng trầm cảm. Những người mắc bệnh thường diễn tả rằng họ hoàn toàn cảm thấy tăm tối, ảm đạm. chán nản, thất vọng. Và vì phần chịu trách nhiệm cảm xúc trong não bộ cũng là phần chịu trách nhiệm cho những cơn đau vật lý mà bạn cảm nhận nên khi cảm xúc của bạn tiêu cực thì đồng thời bạn cũng cảm thấy đau đớn ở phần nào đó của cơ thể mình. Mức độ nặng nhẹ khi mắc rối loạn trầm cảm có để chạm đến mức cực kỳ đau đớn và quá sức chịu đựng.

Andrew Solomon, tác giả của cuốn “Quái vật giữa ngày trưa” đã diễn tả quá trình từ một nỗi buồn bình thường thành trầm cảm nặng của mình như sau:

” Tôi trở về khu rừng nơi tôi thường ra chơi lúc nhỏ với em mình. Ở đó có cây sồi đã đứng sừng sững giữa đất trời hàng trăm năm qua. Tôi và em trai thường hay quanh quẩn dưới bóng râm của nó. Vậy mà chỉ trong vòng 20 năm, một nhánh tầm gửi đã phát triển và gần như nhấn chìm cây sồi dưới những vòng dây tươi tốt và xum xuê. Những gì bạn có thể thấy bây giờ chỉ là vài nhánh sồi yếu ớt cố gắng bám trụ lại. Tôi thấy mình như cây sồi ấy. Trầm cảm đã bủa vây lấy tôi như nhánh tầm gửi chiếm đoạt thân cây sồi nọ. Nó đang hút dần sức sống bên trong và quấn quanh tâm trí tôi, trở nên xấu xí nhưng lại còn “sống” hơn cả bản thân tôi.”

2. Triệu chứng của nhận thức: Bên cạnh việc thay đổi cảm xúc của người bệnh, rối loạn trầm cảm còn khiến cho họ thayy đổi suy nghĩ về bản thân và môi trường xung quanh. Những người mắc rối loạn này thường để ý thấy dòng suy nghĩ của họ bị chậm lại, khó tập trung và dễ bị phân tâm. Song song còn có cảm giác tội lỗi và vô dụng. Họ thường tự trách bản thân nếu có chuyện gì không như ý xảy ra dù cho đó không phải là lỗi của họ đi chăng nữa. Họ dồn hết sự chú ý vào những mặt còn khiếm khuyết của băn thân, môi trường và tương lại. Rất nhiều người sau đó còn nảy ra ý nghĩ tự hại bản thân. Suy nghĩ muốn tự tử dần dần trở nên rõ rệt hơn. Sau một khoảng thời gian, người bệnh cho rằng mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn nếu họ chết đi. Cô Cathy trong ví dụ mà tôi đưa ra ban đầu cũng từng nghĩ đến cái chết không ít lần. Đó là một trong những dấu hiệu quan trọng nhất của rối loạn trầm cảm.

3.Triệu chứng của sinh lý cơ thể. Người bệnh lúc nảo cũng thấy mỏi mệt, cả cơ thể đều đau, thay đổi mạnh trong khẩu vị và giấc ngủ. Như Cathy, cô thường xuyên cảm thấy mệt mỏi. Ngay cả những việc đơn giản nhất như đánh răng, tắm rửa và thay đồ bỗng trở nên quá sức với cô.

Sự thay đổi của giấc ngủ là triệu chứng thường thấy của rối loạn trầm cảm, nhất là khó ngủ. Cái này thường đi cùng với chuyện nhận thức, suy nghĩ bị ảnh hưởng mà tôi đã đề cập bên trên. Một số người còn không thể ngủ yên giấc và họ thường dậy sớm khoaangr một, hai giờ so với bình thường. Một triệu chứng ít thấy khác là ngủ nhiều hơn bình thường. Người bệnh còn không cảm thấy hứng thú gì với những hoạt động giải trí mà họ từng thích. Một trong những ví dụ thường thấy nhất là họ không còn hứng thú gì với chuyện chăn gối nữa. Một số người còn cảm thấy đau cả người và nhức đầu không thôi.

Các triệu chứng của rối loạn trầm cảm còn thể hiện ở những thứ mà người bệnh làm và mức độ họ làm những chuyện đó. Hành vi dễ thấy nhất ở những người này là hành động chậm chạp. Bệnh nhân đi và nói chuyện như thể họ đang ở trong một cuốn phim chiếu chậm. Một số người còn trở nên bất lực, không thể di chuyển được và ngừng luôn việc nói chuyện, hoặc họ có thể ngừng một khoảng thời gian cỡ chừng vài phút trước khi trả lời một câu hỏi nào đó.

Một người phải có từ năm triệu chứng trở lên thuộc bất kỳ hạng mục nào mà tôi nêu trên, xuất hiện gần như là hằng ngày trong khoảng 2 tuần thì người đó mới được chẩn đoán mắc rối loạn trầm cảm. Cathy có những dấu hiệu như khó ngủ, tự trách bản thân, không thể rời nhà, không thể tự làm vệ sinh cá nhân, không muốn nói chuyện với ai, cảm xúc chán nản… Theo DSM-5, tất cả những triệu chứng trên của Cathy đều phù hợp với những triệu chứng của người mắc rối loạn trầm cảm.

Một điều quan trọng trong việc xác định một người có bị trầm cảm hay không là họ phải chưa bao giờ trải qua cảm giác quá khích, hoặc quá vui vẻ đến mức không thể điều khiển bản thân mình trước hoặc sau khi tâm trạng trở nên tồi tệ như lọt vào hố đen không lối thoát. Nếu không thì họ sẽ được chẩn đoán là mắc rối loạn lưỡng cực thay vì trầm cảm.

Đọc đến đây chắc bạn sẽ hỏi tôi rằng, nguyên nhân gì gây ra rối loạn trầm cảm và cách chữa trị của nó?

Các nhà tâm lý học hiện nay vẫn còn đang tranh luận đâu là nguyên nhân gây ra rối loạn trầm cảm. Thật khó để mà đưa ra câu trả lời xác định khi có quá nhiều vấn đề còn đang nằm trong vòng nghiên cứu và thí nghiệm.

Các học giả theo thuyết tiến hóa cho rằng những triệu chứng từ nhẹ đến trung bình của rối loạn trầm cảm có thể phần nào đó hữu ích với bệnh nhân ngoài việc gây ra đau đớn và làm gián đoạn cuộc sống của họ. Dưới góc nhìn của tiến hóa, những triệu chứng như hoạt động chậm chạp , mất đi động lực, cách ly ra khỏi những người khác…có thể là đại diện cho hệ thống phản ứng giúp cho người đó thoát ra khỏi một tình huống đang dần xấu đi. Ở mức thấp và trong khoảng thời gian ngắn, tâm trạng chán nản có thể giúp chúng ta tìm lại được động lực của mình, đồng thời lưu trữ năng lượng cơ thể và dùng nó vào việc đối phó với những tình huống mất mát và thất bại.

Dưới góc nhìn của xã hội, từ khi sinh ra đến chết đi, cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng quấn với cuộc sống của những người khác. Chúng ta sống trong một tập thể và chúng ta cảm thấy buồn khi một người nào đó thân thiết đột nhiên mất đi, hoặc một mối quan hệ chấm dứt, hay lúc chúng ta mất đi việc làm…Trong những trường hợp như vậy, một số bác sĩ cho rằng thay vì cảm giác buồn vì mất đi người khác, chúng ta cảm thấy chán nản vì chúng ta có thể mất đi “vai trò xã hội” của mình hoặc cách mà chúng ta nghĩ về bản thân.

Với những nhà sinh học thì họ lại cho rằng nguyên nhân gây ra rối loạn trầm cảm có thể nằm trong gien của mỗi người và nó có thể là kết quả từ sự ảnh hưởng của nhiều gien khác nhau. Hàm lượng chất dẫn truyền thần kinh – serotonin thấp có thể là nguyên nhân gây ra rối loạn trầm cảm. Bởi vì serotonin quan trọng trong việc điều khiển giấc ngủ, khẩu vị và những phản ứng khác trong cơ thể nên thiếu hụt chất này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng dẫn đến các rối loạn tâm lý như trầm cảm, tâm thần phân liệt, lo lắng… Một số loại thuốc chữa trị rối loạn trầm cảm có cơ chế hoạt động làm tăng hàm lượng serotonin trong cơ thể như Prozac được sử dụng rộng rãi vì tính an toàn và ít tác dụng phụ.

Bên cạnh với việc dùng thuốc, thì phương thức chữa trị dựa trên suy nghĩ – hành vi cũng được sử dụng rộng rãi. Phương thức này hướng dẫn người bệnh tập thay đổi cách suy nghĩ về mình và về mọi thứ xung quanh. Người bệnh sẽ phải suy nghĩ một cách khoa học, hệ thống hơn, thay vì đổ lỗi cho chính mình khi gặp phải trắc trở, thất bại nào đó thì họ phải học cách xem xét tình huống xung quanh họ, những vấn đề, hoặc nguyên nhân ngoài lề có thể góp phần làm nên sự thất bại đó. Hiệu quả của phương pháp này càng tăng nếu đi kèm với việc dùng thuốc điều độ. Hiện tại, phương pháp điều trị kết hợp giữa thuốc chống tái hấp thu serotonin có chọn lọc và tham vấn tâm lý là phương pháp điều trị hiệu quả nhất đối với rối loạn trầm cảm.

Nguồn: Abnormal Psychology by Thomas F. Oltmanns, 7th edition.

Người dịch & chuyển ngữ: Hải Đường Tĩnh Nguyệt

Bệnh Trầm Cảm Và Công Việc Chăm Sóc (Depression And Caregiving)

Giới thiệu

Nhiều người với triệu chứng của bệnh trầm cảm không tự nhận mình bị trầm cảm. Một số người không tự nhận thức những triệu chứng này, trong khi những người khác có thể gặp khó khăn trong việc thừa nhận mình bị trầm cảm. Đây có lẽ là một vấn đề tế nhị. Một cá nhân có thể cảm thấy thất bại hoặc rằng người khác sẽ đánh giá mình. Nhưng đây là những gì quý vị nên biết: đối với người chăm sóc, bệnh trầm cảm thường gặp nhiều hơn là quý vị nghĩ, và đó là một phản ứng bình thường cho một hoàn cảnh khó khăn. Người chăm sóc thường mắc trầm cảm từ nhẹ đến nặng do hệ quả của việc đối mặt với công việc chăm sóc luôn luôn đòi hỏi.

Mọi người đều có suy nghĩ hoặc cảm xúc tiêu cực khi này khi khác, nhưng khi những cảm xúc này mạnh hơn và làm cho quý vị cạn kiệt sức lực, buồn rầu hoặc khó chịu đối với người thân, đó có thể là dấu hiệu cảnh báo cho bệnh trầm cảm. Những quan ngại về bệnh trầm cảm xuất hiện khi cảm giác trống rỗng và khóc lóc không hết, hoặc khi những cảm xúc tiêu cực này cứ đến liên tục.

Thật không may, cảm xúc trầm cảm thường được xem là dấu hiệu của sự yếu đuối hơn là dấu hiệu của một điều gì đó đã mất cân bằng. Những lời nhận xét của người khác như “vượt qua nó đi” hoặc “tại mình nghĩ vậy thôi” không hề có ích, và phản ánh một niềm tin rằng những mối quan ngại về sức khỏe là không có thật. Việc phớt lờ hoặc chối bỏ những cảm xúc của quý vị sẽ không làm cho chúng mất đi.

Quan tâm sớm đến những triệu chứng của bệnh trầm cảm thông qua tập thể dục, chế độ ăn lành mạnh, sự giúp đỡ tích cực từ gia đình và bạn bè, hoặc tham vấn với một chuyên gia sức khỏe hoặc sức khỏe tâm thần được đào tạo có thể giúp phòng tránh việc mắc trầm cảm nặng hơn theo thời gian.

Triệu chứng của bệnh trầm cảm

Mọi người gặp phải trầm cảm theo nhiều cách khác nhau. Một vài người có thể có những triệu chứng kinh điển, như buồn bã và tuyệt vọng. Người khác có thể có các dấu hiệu mà quý vị không nghĩ là trầm cảm, như là mệt mỏi quá độ hoặc cáu bẳn. Loại và mức độ triệu chứng thay đổi theo cá nhân và có thể thay đổi theo thời gian. Cân nhắc những triệu chứng trầm cảm thường gặp này. Bạn đã trải qua bất cứ triệu chứng nào sau đây lâu hơn hai tuần chưa?

Cảm thấy buồn, muốn khóc, trống rỗng, tuyệt vọng

Thay đổi thói quen ăn uống-sụt cân và không muốn ăn hoặc thèm ăn kèm tăng cân

Thay đổi giấc ngủ-ngủ quá nhiều hoặc không đủ

Luôn cảm thấy mệt mỏi, gặp khó khăn để có động lực làm việc gì

Mất hứng thú với những người và/hoặc những hoạt động đã từng mang lại niềm vui cho bạn

Cảm thấy chai sạn

Dễ bị kích động hay nổi nóng

Cảm thấy mình làm gì cũng không đủ tốt

Tăng việc tiêu thụ đồ uống có cồn hoặc chất gây nghiện

Dành quá nhiều thời gian trên Internet

Gặp khó khăn trong tập trung, suy nghĩ, hoặc lên kế hoạch-cứ như đầu bạn bị phủ sương mù

Thờ ơ với sức khỏe thể chất và vẻ bề ngoài của bạn

Nghĩ đến việc trốn chạy, hoặc đào thoát khỏi hoàn cảnh

Nghĩ đến cái chết hoặc tự tử, có ý tưởng về cách kết thúc đời mình

Những triệu chứng về thể chất liên tục không đáp ứng điều trị, như là đau đầu, rối loạn tiêu hóa, và đau cổ và lưng mạn tính

Quan ngại đặc biệt cho người chăm sóc

Những người chăm sóc là nam giới đối phó với trầm cảm một cách khác. Nam giới ít khi thừa nhận bị trầm cảm và bác sĩ ít khi chẩn đoán trầm cảm trên nam giới. Nam giới sẽ thường “tự điều trị” những triệu chứng trầm cảm của họ như cơn giận dữ, sự cáu bẳn, hoặc cảm giác bất lực bằng rượu bia hoặc lao đầu vào công việc. Mặc dù người chăm sóc là nam giới thường dễ sẵn lòng hơn nữ giới để thuê mướn sự trợ giúp từ bên ngoài để giúp đỡ công việc chăm sóc nhà cửa, họ thường có ít bạn hơn để trút bầu tâm sự hoặc ít những hoạt động tích cực hơn để tham gia bên ngoài. Giả định sai lầm rằng triệu chứng trầm cảm là dấu hiệu của sự yếu đuối có thể làm cho nam giới gặp khó khăn rất lớn để tìm kiếm sự giúp đỡ.

Mất ngủ đóng góp vào bệnh trầm cảm. Tuy nhu cầu ngủ thay đổi, phần lớn mọi người cần ngủ tám tiếng mỗi ngày. Mất ngủ do hệ quả từ việc chăm sóc cho người thân có thể dẫn đến trầm cảm nặng. Việc quan trọng cần nhớ là mặc dù bạn có thể không thể làm cho người thân của mình nghỉ ngơi suốt đêm, bạn phải sắp xếp để ngủ đủ giấc. Thuê người làm hoặc nhờ một người bạn ở với người thân trong khi bạn ngủ, tìm một trung tâm chăm sóc, hoặc lên lịch để một thành viên gia đình khác đến ở chung một vài đêm là một số cách để giữ vững sự tận tâm chăm sóc của bạn mà vẫn ngủ đủ giấc.

Trầm cảm có thể kéo dài sau khi đưa người thân vào một trung tâm chăm sóc. Đưa ra quyết định đưa người thân đến một trung tâm chăm sóc là một việc rất căng thẳng. Trong khi nhiều người chăm sóc cuối cùng cũng có thể được nghỉ ngơi đầy đủ, sự cô đơn, cảm giác tội lỗi, và việc giám sát cách người thân được chăm sóc tại địa điểm mới này có thể tạo thêm căng thẳng mới. Nhiều người chăm sóc cảm thấy trầm cảm vào thời điểm đưa người thân vào trung tâm chăm sóc và một số tiếp tục cảm thấy trầm cảm sau đó một thời gian.

Nhiều người cứ cho rằng một khi kết thúc công việc chăm sóc, căng thẳng do phải cung cấp sự chăm sóc trực tiếp sẽ biến mất. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng ngay cả sau khi người vợ hoặc chồng bị bệnh mất trí đã mất được ba năm, một số người chăm sóc trước đó tiếp tục trải nghiệm sự trầm cảm và cô độc. Để nỗ lực đưa cuộc sống của họ trở lại bình thường, người chăm sóc trước đây có thể cũng cần tìm kiếm sự giúp đỡ cho bệnh trầm cảm.

Cần làm gì nếu bạn nghĩ mình bị trầm cảm

Không quá hiếm cho một người nhận được sự chăm sóc mắc phải bệnh trầm cảm mà không được chẩn đoán. Mọi việc cảm thấy tồi tệ hơn là thực tế từ góc nhìn của họ kèm với bất cứ những thử thách trong việc chăm sóc hằng ngày mà bạn phải trải qua. Nếu bạn nghi ngờ rằng mình đang gặp phải tình huống này trong việc chăm sóc, hãy tìm kiếm một cơ hội để chia sẻ mối lo lắng của bạn với họ. Nếu họ ngần ngại nói về điều này với bạn, hãy động viên một người bạn tin cậy để nói chuyện với họ hoặc cân nhắc việc gửi một bức thư đến bác sĩ của họ về mối lo lắng của bạn trước cuộc hẹn khám tiếp theo của họ.

Bệnh trầm cảm được điều trị như thế nào?

Bước đầu tiên để nhận được trị liệu tốt nhất cho bệnh trầm cảm là gặp một chuyên gia sức khỏe tâm thần như một nhà tâm lý học, nhân viên công tác xã hội, hoặc những nhà trị liệu có cấp phép khác. Cùng lúc đó, hãy lên lịch khám sức khỏe với bác sĩ của bạn. Những loại thuốc nhất định, cũng như một số tình trạng bệnh lý như nhiễm siêu vi, có thể gây ra triệu chứng giống với trầm cảm, và nên được một bác sĩ đánh giá. Buổi khám nên bao gồm các xét nghiệm và một buổi phỏng vấn kiểm tra trạng thái tâm thần để xác định liệu lời nói, trí nhớ, hoặc mạch suy nghĩ có bị ảnh hưởng chưa.

Mặc dù một bác sĩ có thể kê toa thuốc chống trầm cảm, chỉ thuốc men thôi thì không phải là trị liệu hiệu quả nhất cho bệnh trầm cảm. Việc có sự hướng dẫn đồng thời của một chuyên gia sức khỏe tâm thần được cực lực khuyến cáo. Nhà trị liệu hoặc nhà tư vấn sẽ lắng nghe những mối lo của bạn, tầm soát xem bạn có triệu chứng trầm cảm, và hỗ trợ bạn bằng nhiều cách tiến triển để giải quyết căng thẳng của mình và xây dựng nên các cách đối phó mới.

Một cách khác để tìm một chuyên gia là hỏi bạn bè về một ai đó mà họ biết và tin tưởng. Bạn còn có thể tìm chuyên gia bằng cách hỏi mục sư hoặc giáo sĩ, bác sĩ của bạn, hoặc nếu bạn đang đi làm, bạn có thể kiểm tra danh sách nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm của người thuê bạn hoặc Chương Trình Hỗ Trợ Nhân Viên (Employee Assistance Program, EAP). Bên cạnh đó, các tổ chức quốc gia có thể cung cấp thông tin liên lạc cho các chuyên gia sức khỏe tâm thần trong cộng đồng của bạn. (Xem “Tìm Chuyên Gia ở Khu Vực của Bạn” trong tài liệu này.)

Quan trọng là phải tin tưởng và cảm thấy thoải mái với chuyên gia bạn đến khám. Không phải là hiếm khi yêu cầu một buổi giới thiệu miễn phí qua điện thoại hoặc trực tiếp gặp gỡ để giúp quyết định xem liệu chuyên gia có phù hợp với các nhu cầu và phong cách riêng của bạn không. Nên làm rõ:

Giá tiền là bao nhiêu

Bảo hiểm của bạn sẽ trả bao nhiêu

Có bao nhiêu buổi gặp được xếp lịch bạn mong đợi là sẽ có với nhà trị liệu sức khỏe tâm thần

Bất cứ trị liệu nào nên được đánh giá định kỳ để đảm bảo rằng nó tiếp tục có đóng góp vào cải thiện sức khỏe và trưởng thành của bạn.

Các lựa chọn điều trị

Nếu cần trị liệu bằng thuốc, một khoảng thử và sai nhất định là cần thiết để tìm ra đúng loại và đúng liều thuốc cho mỗi cá nhân, và có thể mất khoảng vài tuần trước khi có hiệu quả. Việc giao tiếp tốt giữa bệnh nhân và bác sĩ là rất quan trọng. Những người lớn tuổi hơn nên cần đặc biệt cẩn thận coi chừng tác dụng phụ của thuốc gây ra do liều quá cao hoặc tương tác với các thuốc khác.

Các liệu pháp bổ trợ và thay thế

Tập thể dục: Thể dục đã được chứng minh là giảm tác động của bệnh trầm cảm. Đi bộ ba lần mộ tuần từ 30 đến 45 phút đã được liên kết với việc giảm hoặc cải thiện triệu chứng trầm cảm. Nếu bạn không có quá nhiều thời gian cho việc đó, thì hãy bắt đầu với 15 phút một lần một tuần. Thông điệp quan trọng là hãy bắt đầu hoạt động thể dục đều đặn.

Chưa biết rằng liệu hoạt động thể dục ngăn ngừa trầm cảm khởi phát hay chỉ là giúp điều chỉnh tác động. Sắp xếp thời gian để tập thể dục đôi khi khó khăn cho người chăm sóc. Nó thường được xem là hoạt động “giá trị gia tăng”-việc gì đó để làm khi tất cả việc khác đã xong. Bạn có thể cân nhắc việc đưa nó vào danh sách “cần làm” của bạn, nhờ một người bạn đưa “ngày đi bộ” cho bạn mỗi tuần như là một món quà, hoặc yêu cầu bác sĩ của bạn kê toa đi bộ hoặc tham dự một lớp thể dục. Tất cả nghiên cứu cho thấy rằng để có cuộc sống khỏe mạnh hơn, dành thời gian để tập thể dục là khôn ngoan.

Kỹ thuật Tâm trí-Thể xác: Ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu cho thấy rằng suy nghĩ, niềm tin, và cảm xúc của chúng ta có thể có tác động trực tiếp lên sức khỏe, và sức khỏe thể chất của chúng ta có thể tác động lên sức khỏe tâm thần. Tâm trí và thể xác của bạn liên kết với nhau. Áp dụng kỹ thuật tâm trí-thể xác vào hoạt động hằng ngày của bạn có thể giúp cải thiện trầm cảm.

Thực phẩm chức năng: Những loại thảo dược bán không cần toa như hoa ban Âu (St. John’s Wart, Hyperium perforatum) và những loại thực phẩm chức năng khác như SAMe và acid béo omega-3 đang được nghiên cứu và/hoặc đang được sử dụng rộng rãi tại Hoa Kỳ và châu Âu để điều trị các triệu chứng trầm cảm. Hiện tại, đối với các thuốc không kê toa tại Hoa Kỳ, không có tiêu chuẩn rõ ràng nào để quyết định lượng hoạt chất một công ty cho vào sản phẩm của họ hoặc liều nào là phù hợp với một người cụ thể. Rất khó để xác định hiệu quả của một sản phẩm, và có thể có tác dụng phụ có hại. Ví dụ, Cục Quản Lý Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ đã ban hành một thông báo cảnh báo rằng hoa ban Âu có thể ảnh hưởng con đường chuyển hóa được nhiều thuốc kê toa dùng để điều trị một số bệnh lý, bao gồm bệnh tim, trầm cảm, và nhiễm HIV.

Liệu pháp ánh sáng, sử dụng những đèn huỳnh quang được thiết kế đặc biệt, đã được chứng tỏ đảo ngược các triệu chứng trầm cảm của SAD. Nhiều chuyên gia tin rằng liệu pháp ánh sáng hoạt động bằng cách thay đổi nồng độ của một số hóa chất nhất định trong não, cụ thể là melatonin. Thuốc chống trầm cảm cùng với những phương pháp trị liệu khác, bao gồm tập thể dục, cũng có thể giúp ích. Nếu bạn gặp triệu chứng trầm cảm theo mùa, hãy thử nghiệm với việc tăng ánh sáng ở môi trường xung quanh bạn, bằng đèn hoặc những nguồn khác. Nếu triệu chứng đủ nặng nề để ảnh hưởng đến hoạt động thường ngày của bạn, hãy gặp một chuyên gia sức khỏe tâm thần có chuyên môn về điều trị SAD.

Chi trả cho điều trị

Bảo hiểm sức khỏe tư nhân và Medicare có thể chi trả một vài dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần, và Đạo luật Chăm sóc Sức khỏe Hợp túi tiền (Affordable Care Act, ACA) đã gia tăng phạm vi bảo hiểm cho các phúc lợi về sức khỏe tâm thần. Chính sách khác biệt rất lớn, nên tốt nhất là gọi trực tiếp cho chuyên gia sức khỏe tâm thần để biết liệu họ có chấp nhận chi trả bảo hiểm của bạn không. Nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm sức khỏe sẽ thường liệt kê những chuyên gia sức khỏe tâm thần trong cùng tài liệu bảo hiểm mà liệt kê những bác sĩ y khoa có trong kế hoạch bảo hiểm sức khỏe. Người có Medicare sẽ có quyển sách nhỏ tiêu đề, “Medicare và Phúc lợi Sức khỏe Tâm thần của Bạn” một nguồn thông tin hữu ích. Xem phần Nguồn lực của tài liệu này để biết cách có được một bản của quyển sách này.

Những chuyên gia không chấp nhận bảo hiểm được gọi là “người cung cấp dịch vụ nằm ngoài mạng lưới,” và họ có thể đưa cho bạn hóa đơn để bạn có thể nộp cho bên bảo hiểm của bạn để được hoàn trả một phần. Hãy kiểm tra với chuyên gia xem liệu có lựa chọn này không. Nếu có, bạn sẽ phải liên hệ với công ty bảo hiểm của mình để đảm bảo rằng họ sẽ gánh vác một phần chi phí. Họ có thể yêu cầu bạn phải đạt một khoản khấu trừ trước khi họ bắt đầu chi trả.

Người chăm sóc không có bảo hiểm sức khỏe hoặc người tự chi trả bằng tiền túi cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ thấy rằng chi phí sẽ thay đổi tùy theo chuyên gia và vùng miền, với những bác sĩ tâm thần và chuyên gia tâm lý sẽ tính giá ở mức cao hơn trên thang giá, và những nhà trị liệu và nhân viên công tác xã hội sẽ cung cấp dịch vụ ở mức giá vừa phải hơn. Một vài chuyên gia sẽ cung cấp một thang giá dao động, nghĩa là họ có thể điều chỉnh chi phí của mình xuống để đáp ứng nhu cầu của bạn. Cũng có thể có những phòng khám giá thấp có mức giá thấp cố định hoặc sẽ tính phí dựa trên khả năng chi trả của bạn. Ở những địa điểm như thế này, bạn sẽ thường được một nhân viên sức khỏe tâm thần thực tập khám với sự giám sát của một nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần có giấy phép. Trong bất cứ trường hợp nào, hãy tìm hiểu xem chi phí là bao nhiêu trước để tránh bất cứ hiểu nhầm nào sau đó.

Chiến thuật để giúp bản thân

Hãy phân những tác vụ lớn thành những công việc nhỏ hơn, đặt ra một vài ưu tiên, và làm những gì trong khả năng.

Cố gắng dành thời gian với người khác và tâm sự với ai đó bạn biết và tin tưởng; điều này tốt hơn là phải chịu đựng một mình.

Tham gia vào những hoạt động làm bạn cảm thấy tốt hơn, như là tập thể dục, đi xem phim hoặc một trận đấu bóng, hoặc tham gia một sự kiện tôn giáo, xã hội, hoặc cộng đồng.

Mong đợi rằng tâm trạng của bạn sẽ cải thiện từ từ, chứ không phải ngay lập tức. Cần thời gian để cảm thấy tốt hơn.

Người ta hiếm khi “nhanh chóng vượt qua” trầm cảm. Người nào mong đợi bạn như thế đã có sự hiểu biết sai lầm về bệnh tình của bạn.

Hãy nhớ, suy nghĩ tích cực và thực hành những cách đối phó mới sẽ thay thế suy nghĩ tiêu cực mà là một phần của bệnh trầm cảm. Suy nghĩ tiêu cực sẽ giảm bớt khi bệnh trầm cảm của bạn đáp ứng với điều trị.

Hãy nói “có” với những lời đề nghị giúp đỡ và can thiệp của gia đình và bạn bè mà bạn biết và tin tưởng.

Việc hỗ trợ trực tiếp trong việc chăm sóc người thân của bạn, như là chăm sóc hộ để cho bạn nghỉ ngơi, cũng như là phản hồi tích cực từ những người khác, độc thoại tích cực, và các hoạt động giải trí được liên kết với mức độ trầm cảm thấp hơn. Hãy tìm kiếm những lớp học và nhóm hỗ trợ thông qua các tổ chức hỗ trợ người chăm sóc để giúp bạn học hỏi và thực tập những chiến thuật giải quyết vấn đề và đối phó hiệu quả cần thiết cho công việc chăm sóc. Vì sức khỏe của bạn và những người xung quanh bạn, hãy dành thời gian để chăm sóc bản thân.

Nguồn lực

Liên Hiệp Người Chăm Sóc Gia Đình (FCA) tìm cách cải thiện chất lượng cuộc sống cho những người chăm sóc thông qua đào tạo, các dịch vụ, nghiên cứu và vận động. Thông qua Trung Tâm Chăm Sóc Quốc Gia, FCA cung cấp thông tin về xã hội, chính sách công cộng, và các vấn đề chăm sóc và cung cấp hỗ trợ trong việc phát triển các chương trình công cộng và cá nhân dành cho những người chăm sóc. Đối với cư dân Vùng Vịnh San Francisco mở rộng, FCA cung cấp dịch vụ hỗ trợ trực tiếp cho người chăm sóc những người mắc bệnh Alzheimer, đột quỵ, chấn thương sọ não, Parkinson, và các tình trạng làm suy nhược khác gây tổn thương cho người trưởng thành.

Tìm một chuyên gia tại khu vực của bạn

Bác sĩ tâm thần (MD): Bác sĩ tâm thần là bác sĩ y khoa có chuyên môn về chẩn đoán, điều trị, và phòng ngừa bệnh tâm thần, bao gồm lạm dụng và nghiện chất.

Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳhttps://www.psychiatry.org/(liên kết bên ngoài) Cung cấp thông tin miễn phí về trầm cảm và giới thiệu đến khám các bác sĩ tâm thần trong khu vực của bạn.

Bác Sĩ Tâm Lý (PhD): Được cấp phép để thực hiện tâm lý trị liệu và được đào tạo đặc biệt về kiểm nghiệm tâm lý. Mặc dù được gọi là “bác sĩ” nhưng bác sĩ tâm lý không thể kê toa thuốc.

Hiệp Hội Tâm Lý Hoa Kỳwww.apa.org (liên kết bên ngoài) Truy cập trang web của APA để biết thêm thông tin về trầm cảm, hoặc gọi số điện thoại miễn phí để được giới thiệu đến khám một bác sĩ tâm lý trong khu vực của bạn.

Nhân Viên Công Tác Xã Hội Lâm Sàng có Giấy Phép (LCSW): Được cấp phép để thực hiện tâm lý trị liệu, với sự đào tạo đặc biệt trong việc tiếp cận con người trong môi trường sống của họ. Có đào tạo chuyên biệt về hành vi con người, hành vi gia đình, tâm lý học, và giải quyết vấn đề. Có bằng Thạc sĩ về Công Tác Xã Hội (MSW) với hai năm làm việc có giám sát hậu đại học cung cấp điều trị lâm sàng.

Hiệp Hội Nhân Viên Công Tác Xã Hội Quốc Giawww.naswdc.org (liên kết bên ngoài) Cung cấp thông tin miễn phí về trầm cảm và giới thiệu đến khám các nhân viên công tác xã hội trong khu vực của bạn.

Nhà Trị Liệu Hôn Nhân và Gia Đình có Giấy Phép (LMFT): Được cấp phép để thực hiện tâm lý trị liệu và được đào tạo để chẩn đoán và điều trị các vấn đề sức khỏe tâm thần. Làm việc với những cá nhân, cặp đôi, gia đình và nhóm. Có bằng Thạc sĩ về Tư vấn Tâm lý với kinh nghiệm làm việc sau đại học có giám sát.

Lưu ý: Những chuyên gia khác có thể được cấp phép để thực hiện tâm lý trị liệu tại bang hoặc quốc gia của bạn. Hãy kiểm tra với sở sức khỏe tâm thần địa phương hoặc bệnh viện trong cộng đồng của bạn để biết thêm thông tin.

Những tổ chức và đường dẫn Khác

Medicarewww.medicare.gov (liên kết bên ngoài) Gọi 1-800-MEDICARE (1-800-633-4227) để yêu cầu một bản sao quyển “Medicare và Phúc lợi sức khỏe tâm thần của bạn.”

Viện Sức Khỏe Tâm Thần Quốc Giawww.nimh.nih.gov (liên kết bên ngoài) Cung cấp thông tin miễn phí về bệnh trầm cảm và những bệnh tâm thần khác bằng tiếng Anh và Tây Ban Nha.

Tài liệu khuyến nghị

The Caregiver Helpbook (Sách Chỉ dẫn cho Người Chăm sóc): Powerful Tools for Caregiving (Công cụ Mạnh mẽ cho Công việc Chăm sóc) (đường dẫn ra ngoài)www.powerfultoolsforcaregivers.org (đường dẫn ra ngoài)

Caring for Yourself While Caring for Your Aging Parents, Third Edition (Chăm sóc Bản thân Khi Chăm sóc cho Cha mẹ Già của Bạn, Tái bản lần Ba): How to Help, How to Survive (Cách để Giúp, Cách để Tồn tại) (đường dẫn ra ngoài), Claire Berman. Tái bản lần 3 New York: Henry Holt, 2005.

Hãy giúp hỗ trợ Liên Hiệp Người Chăm Sóc Gia đình bằng cách chọn FCA là Tổ Chức Từ Thiện Amazon Smile của bạn!

Tài liệu này được Liên Hiệp Người Chăm Sóc Gia Đình chuẩn bị và được xét duyệt bởi Beth MacLeod, Nhân viên Công tác Xã hội có Giấy phép Lâm sàng (LCSW) trong khu vực hành nghề tư nhân chuyên về tư vấn chăm sóc và tâm lý trị liệu, người giám sát lâm sàng cho các chuyên gia về lão hóa và những ai làm việc với những người chăm sóc gia đình. © 2002, 2008, 2016 Family Caregiver Alliance. Tất cả các quyền được bảo hộ.

Bạn Có Đang Bị Rối Loạn Cảm Xúc?

Rối loạn cảm xúc có rất nhiều dạng. Trong đó, hai chứng rối loạn cảm xúc thường gặp nhất của con người là trầm cảm và rối loạn lưỡng cực.

2.1 Cảm xúc ức chế (trầm cảm)

Dạng phổ biến nhất của rối loạn cảm xúc hiện nay đó là trầm cảm. Nếu bạn có ít nhất 5 trong những triệu chứng sau, trong đó có ít nhất triệu chứng 1 hoặc 2; và các triệu chứng kéo dài ít nhất 2 tuần. Khi đó, bạn cần được gặp bác sĩ để được điều trị thích hợp.

2.1.1 Trạng thái u uất kéo dài cả ngày

Nét mặt trở nên đơn điệu, luôn buồn bã. Các nếp nhăn giảm nhiều thậm chí mất hết nếp nhăn. Một số người than phiền rằng không còn nhiệt tình, không còn cảm giác gì. Hoặc luôn trong tình trạng lo âu. Nhiều bệnh nhân lại có trạng thái tăng kích thích (dễ cáu gắt, dễ khó chịu với một lỗi lầm nhỏ).

2.1.2 Giảm hoặc mất mọi hứng thú

Các bệnh nhân cho rằng họ đã mất hết các sở thích. Họ thường trả lời “Tôi không thích gì bây giờ cả”. Tất cả các sở thích trước đây của bệnh nhân đều bị ảnh hưởng nặng nề, kể cả ham muốn tình dục.

2.1.3 Giảm cân đáng kể không phải do ăn kiêng

Người bệnh cảm thấy chán ăn, mất cảm giác ngon miệng. Họ có thể không hề thấy đói mặc dù cả ngày không ăn gì. Với một số trường hợp, bữa ăn trở thành gánh nặng ép buộc với họ. Dù rất cố gắng, người bệnh trầm cảm chỉ ăn được rất ít so với lúc bình thường.

Ngược lại, ở khoảng 5% số bệnh nhân trầm cảm lại tăng cảm giác ngon miệng và ăn vô độ. Khi đó họ dễ tăng cân và trở thành béo phì.

2.1.4 Mất ngủ hay ngủ nhiều quá mức

Đa phần bệnh nhân trầm cảm thường bị mất ngủ. Bệnh nhân có thể tỉnh ngủ giữa giấc. Mất ngủ là triệu chứng gây khó chịu rất nhiều cho bệnh nhân. Họ thấy đêm rất dài, trằn trọc mãi mà không ngủ được.

Hiếm gặp hơn, có một số bệnh nhân biểu hiện ngủ quá mức. Họ có thể ngủ tới 12 tiếng mỗi ngày, thậm chí ngủ nhiều hơn nếu không có công việc gì. Ngủ nhiều gặp ở 5% số bệnh nhân trầm cảm và thường phối hợp với triệu chứng ăn nhiều.

Các hành vi rối loạn này được nhận thấy bởi người khác chứ không phải chỉ là cảm giác của bệnh nhân. Người bệnh trầm cảm có thể trở nên bồn chồn lo âu, đứng ngồi không yên. Họ vận động liên tục mà không có mục đích rõ ràng. Một số lại trở nên chậm chạp (nói chậm, cử động chậm, nói nhỏ, ít từ, nội dung nghèo nàn). Có thể nằm lì trên giường cả ngày mà không hoạt động gì.

2.1.6 Mệt mỏi, mất năng lượng hầu như mỗi ngày

Thậm chí chỉ với một công việc rất nhẹ nhàng, người bị trầm cảm cũng cần một sự tập trung và cố gắng nhiều mới hoàn thành được. Ví dụ, một người có thể than phiền rằng việc rửa mặt và mặc quần áo cũng làm họ kiệt sức và cần thời gian nhiều hơn bình thường 2 lần để làm xong.

Khi triệu chứng giảm sút năng lượng xuất hiện trở nên trầm trọng thì bệnh nhân hầu như không thể làm được việc gì (thậm chí cả vệ sinh cá nhân cũng là quá sức với họ).

2.1.7 Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi quá mức

Bệnh nhân cho rằng mình là kẻ vô dụng. Họ luôn nghĩ mình đã làm hỏng mọi việc, trở thành gánh nặng cho gia đình, cơ quan và xã hội. Thậm chí bệnh nhân luôn tự trách móc bản thân chỉ vì những sai lầm rất nhỏ. Nhiều bệnh nhân luôn nghĩ mọi việc không hay xảy ra là do khiếm khuyết của họ. Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi có thể mạnh lên thành hoang tưởng. Ví dụ: một bệnh nhân tin rằng anh ta là sự khốn cùng của thế giới.

2.1.8 Khó suy nghĩ, tập trung hoặc ra quyết định

Bệnh nhân thường phải cân nhắc rất nhiều thời gian với những việc thông thường. Ví dụ một người nội trợ đã không thể quyết định mua rau muống hay rau cải. Bệnh nhân khó tập trung hoàn thành những việc đơn giản như không thể đọc xong một bài báo ngắn. Hoặc không thể nghe hết một bài hát yêu thích. Hoặc không thể xem hết một chương trình tivi mà trước đây vẫn quan tâm.

Rối loạn trí nhớ ở bệnh nhân thường là giảm trí nhớ gần. Bệnh nhân thường xuyên quên mình vừa làm gì. Ví dụ như không nhớ mình vừa ăn gì, không thể nhớ đã bỏ chìa khoá ở đâu…

2.1.9 Ý nghĩ muốn chết hoặc có hành vi tự sát

Mật độ và cường độ của ý định tự sát có thể rất khác nhau. Trong trường hợp nặng, ý nghĩ tự sát tái diễn (1 hoặc 2 lần/tuần), họ có thể cân nhắc kỹ càng và chuẩn bị kĩ trước khi thực hiện.

2.2 Cảm xúc vui vẻ tột độ (hưng cảm)

Là một trạng thái cảm xúc hoàn toàn đối lập với trầm cảm. Người bệnh trở nên phấn khích quá mức về mặt cảm xúc và hành vi mà không kiểm soát được. Các biểu hiện của hưng cảm bao gồm:

Nói nhiều và nhanh hơn bình thường, không kiểm soát được. Nội dung lộn xộn và liên tục thay đổi.

Nảy sinh ra những ý tưởng, hành động điên rồ tức thì mà không kịp nghĩ đến hậu quả. Có thể dẫn đến nguy hiểm cho bản thân hoặc những người xung quanh.

Khó tập trung, giảm nhu cầu ngủ.

Ảo tưởng về khả năng của bản thân.

Đôi khi bệnh nhân trở nên hung dữ, thích đập phá, châm chọc gây bất hòa.

Vẻ mặt rất biểu cảm, đứng ngồi không yên, hay liếc mắt với người khác, ít ngủ, ăn uống ít, thân mật với mọi người thái quá, chi tiêu không tính toán, không biết e thẹn nên hay có những hành vi lỗ mãng, khiêu dâm, đi đứng như là đang đi diễu binh.

3. Nguyên nhân gây nên chứng rối loạn cảm xúc

Chứng rối loạn hành vi thường có rất nhiều nguyên nhân. Một số yếu tố gây ra bệnh gồm:

Do gen di truyền.

Não bị tổn thương hoặc do các chấn thương ở hệ thống dẫn truyền thần kinh ở các vùng khác nhau của não bộ.

Rối loạn nội tiết: sự thay đổi bất thường về nội tiết trong cơ thể cũng có thể dẫn đến rối loạn cảm xúc.

Do các tác động từ cuộc sống như quá khứ từng bị lạm dụng, gia đình không hạnh phúc…

Các yếu tố làm tăng nguy cơ bị rối loạn cảm xúc bao gồm:

Đã từng bị trầm cảm trước đây

Nữ giới: là nhóm đối tượng dễ bị tác động bởi yếu tố tâm lý

Cuộc sống căng thẳng, ít hoạt động

Người bị bệnh nặng, bệnh nan y, mất trí nhớ

Lạm dụng thuốc, hoặc bia rượu, chất kích thích

4. Điều trị rối loạn cảm xúc thế nào?

Việc điều trị thường bắt đầu với biện pháp tâm lý trị liệu. Người bệnh có thể phải uống thuốc nếu bác sĩ thấy cần thiết. Thường thì biện pháp điều trị hiệu quả nhất là kết hợp cả hai.

Về vấn đề trị liệu tâm lý, nghiên cứu cho thấy rằng liệu pháp giao tiếp hoặc hành vi nhận thức rất hữu ích cho những người mắc bệnh trầm cảm.

Cần lưu ý rằng thuốc chống rối loạn cảm xúc là con dao hai lưỡi. Khi sử dụng phải theo chỉ định của bác sĩ. Cả người bệnh và người thân trong gia đình cần theo dõi chặt chẽ cả về tâm thần và cơ thể, giấc ngủ.

Liều lượng và cách dùng từng thuốc tùy thuộc vào từng cơ sở điều trị và kinh nghiệm của bác sĩ chuyên khoa. Người bệnh không được tự ý dùng thuốc theo người khác vì mỗi người có một liều lượng khác nhau.

4.2 Lời khuyên để phòng ngừa các rối loạn cảm xúc

Học cách cân bằng, không quá trầm trọng hóa các vấn đề và đón nhận mọi sự cố trong cuộc đời mình một cách nhẹ nhàng hơn.

Sống thật với cảm xúc của mình (không cần che giấu hoặc sống ảo). Khi có sự cố, phải đối đầu với nó bằng một tinh thần đón nhận. Không khoả lấp vấn đề bằng việc trốn tránh hoặc bằng những thú vui tạm thời. Hãy chân thành với suy nghĩ thật của bản thân. Bạn có thể chia sẻ với gia đình, bạn bè tin cậy.

Trang bị cho mình kiến thức để biết về bệnh tâm lý. Khi bạn thấy mình bắt đầu rơi vào căng thẳng mất kiểm soát hay có triệu chứng của mất ngủ, của hoang mang, của âu lo… hãy tích cực tìm hiểu về nó để giải quyết.

Tập lối sống sinh hoạt điều độ. Việc ăn uống lành mạnh, nhiều trái cây và rau xanh. Việc tập thể dục mỗi ngày (gym, yoga, đi bộ, bơi lội…) không những giúp nâng cao sức khỏe thể chất mà còn cải thiện tinh thần.

Rối loạn cảm xúc là căn bệnh phức tạp và gây ảnh hưởng nghiêm trọng lên đời sống của người bệnh. Biện pháp điều trị được ưu tiên hàng đầu là sử dụng thuốc và tư vấn, ngoài ra người bệnh còn cần thêm sự trợ giúp của những người thân xung quanh và giáo dục để kiểm soát hành vi. Hy vọng qua bài viết này, bạn sẽ có được những thông tin hữu ích để tìm ra hướng giải quyết phù hợp nhất.

Thuốc Điều Trị Trầm Cảm

Các thuốc chống trầm cảm không được khuyến cáo thường qui cho điều trị ban đầu đối với các triệu chứng trầm cảm dưới ngưỡng hoặc trầm cảm nhẹ. Điều trị bằng thuốc nên được cân nhắc trong các trường hợp sau:

Nếu trầm cảm nhẹ làm phức tạp việc chăm sóc các vấn đề sức khỏe thực thể

Hiện diện trầm cảm nhẹ hoặc triệu chứng trầm cảm dưới ngưỡng ở những bệnh nhân có tiền sử trầm cảm mức độ vừa đến nặng trước đó

Trầm cảm nhẹ hoặc triệu chứng trầm cảm dưới ngưỡng dai dẳng sau khi đã có các can thiệp khác

Triệu chứng trầm cảm dưới ngưỡng kéo dài dai dẳng trong thời gian dài (vd: 2 năm)

Có nhiều bằng chứng về hiệu quả của các thuốc chống trầm cảm đối với trầm cảm mức độ trung bình – nặng kết hợp với liệu pháp tâm lý/ hành vi nhận thức.

Điều trị thuốc được khuyến cáo đối với trầm cảm:

Sử dụng liều có hiệu quả (sau khi tăng liều, nếu cần thiết)

Đối với một đợt điều trị, cần tiếp tục duy trì điều trị ít nhất 6 – 9 tháng sau khi các triệu chứng trầm cảm đã hết (với trường hợp nguy cơ tái phát cao nên tiếp tục dùng ít nhất 2 năm)

Fluoxetine, Fluvoxemine và Paroxetine có xu hướng tương tác thuốc cao hơn (Fluoxamine và Paroxetine ít được ưa chuộng nhất). Có thể cân nhắc sử dụng Sertraline và Citalopram ở bệnh nhân có các vấn đề về sức khỏe mạn tính vì ít có xu hướng tương tác với các thuốc khác

Khi lựa chọn thuốc chống trầm cảm, cần quan tâm thêm:

Lựa chọn của bệnh nhân, nhận thức về hiệu quả và tác dụng phụ

Các rối loạn tâm thần mắc kèm như rối loạn ám ảnh cưỡng chế, lo lắng … khi khai thác tiền sử bệnh

Các tác dụng bất lợi dự kiến như kích động, nôn, buồn nôn khi dùng SSRI và các triệu chứng khi ngưng thuốc

Tương tác thuốc với các thuốc dùng kèm hoặc bệnh mắc kèm

Chuyển đổi thuốc điều trị sớm (ví dụ sau 1-2 tuần) nếu không dung nạp tác dụng phụ hoặc không ghi nhận sự cải thiện sau 3-4 tuần. Các thuốc chống trầm cảm bắt đầu có tác dụng sau 2-6 tuần sẽ là các dấu hiệu dự đoán đáp ứng tốt

Nếu không có bất cứ sự cải thiện nào sau 3-4 tuần thì cần thay đổi điều trị. Nếu có một vài sự cải thiện, tiếp tục điều trị và đánh giá sau 2-3 tuần nữa.

Các thuốc dùng kèm

Thuốc chống trầm cảm được khuyến cáo

NSAIDs (thuốc kháng viêm non-steroid)

Cố gắng tránh sử dụng SSRI – nếu không có lựa chọn thay thế nào, cần dùng thêm các thuốc bảo vệ dạ dày – ruột cùng với SSRI

Cân nhắc Mirtazaoine, Moclobemide hoặc Trazodone

Warfarin hoặc Heparin

Thường không chỉ định SSRI, cân nhắc Mirtazapine

Theophylline hoặc Methadone

Citalopram hoặc Sertraline (Sertraline có thể nồng độ Methadone)

Clozapine

Cân nhắc Citalopram hoặc Sertraline (tăng nhẹ Clozapine huyết thanh có thể xảy ra, đặc biệt khi dùng với Sertraline)

Các thuốc Triptan điều trị đau nửa đầu

Không sử dụng SSRI; dùng Mirtazapine hoặc trazodone

Aspirin

Thận trọng khi sungd SSRI; nếu không có lựa chọn thay thế thích hợp nào cần dùng thuốc bảo vệ dạ dày-ruột cùng SSRI

Cân nhắc chỉ định Trazodone khi sử dụng đơn thuần Asspirin; lựa chọn thay thế là Mirtazapine

ức chế Monoamine-oxidase β như Selegiline, Rasagiline

Thường không dùng SSRI; sử dụng Mirtazapine hoặc trazodone

Flecainide hoặc propafenone

Ưa chuộng sử dụng Sertraline; có thể dùng Mirtazapine, moclobemide

Bảng1. Lựa chọn thuốc chống trầm cảm khi dùng kèm thuốc khác

Các nhóm thuốc điều trị trầm cảm ở người lớn

Citalopram

SSRI

Viên 10 mg, 20 mg và 40 mg

Uống dạng giọt 40 mg/ ml ( 1 giọt = 2 mg); 4 giọt ~ viên 10 mg

SSRI có khuynh hướng tương tác thuốc thấp nhất

Lực chọn phù hợp cho người suy thận

Citalopram: kéo dài quá trình – hạn chế liều tối đa hàng ngày (bao gồm bệnh nhân cao tuổi)

Citalopram có độc tính cao nhất trong nhóm SSRI khi dùng quá liều (lơ mơ, động kinh, loạn nhịp)

Chống chỉ định dùng kết hợp với các thuốc có tác dụng kéo dài quá trình khác

Dựa trên điện tâm đồ ở bệnh nhân có bệnh lý tim mạch

Lofepramide

TCA

Viên 70 mg

Nhũ dịch uống 70 mg/5ml

Như Amitriptyline

Tần xuất tác dụng phụ thấp hơn, ít độc tính hơn khi dùng quá liều. Its độc tính trên tim mạch hơn các thuốc TCA khác

Là lựa chọn phù hợp trong trường hợp bệnh nhân có hạ natri huyết do SSRI

Có thể gấy tăng men gan

Miztazapine

SNRI

Viên 15 mg, 30 mg và 45 mg

Dung dịch uống 5 mg/ml

Chỉ dùng dạng dung dịch khi dagj viên không phù hợp

Lựa chọn an toàn cho bệnh nhân có nguy cơ cao xuất huyết đường tiêu hóa như người cao tuổi + NSAID

Cân nhắc khi SSRI không có lợi hoặc không phù hợp

Lựa chọn tốt trong t/h cần có tác dụng an thần

Moclobemide

MAOI

Viên 150 mg, 300 mg

Chỉ dùng cho trường hợp khởi đầu đặc biệt

Nguy cơ giảm với tương tác thuốc và thức ăn tuy nhiên bệnh nhân nên tránh ăn nhiều thực phẩm giàu tyramine và các thuốc giống giao cảm

Không khuyến cáo cho bệnh nhân tim mạch

Phênlzine

MAOI

Viên 15 mg

Như Moclobemide

An toàn nhất trong nhóm MAOI

Raboxetine

ức chế thu nạp noradrenaline chọn lọc

Viên 4 mg

Thận trọng với bệnh nhân suy thận, suy gan

Cần giám sát cẩn thận ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực, ứ tiểu, phì đại tiền liệt tuyến, glaucoma, tiền sử dộng kinh hoặc rối loạn tim mạch

Sertraline

SSRI

Viên 50 mg và 100 mg

Lựa chọn cho accs BN tim mạch ( nhồi máu cơ tim, đau thắt ngực) hoặc suy thận

Khuynh hướng tương tác thuốc thấp

Venlafaxine

SNRI

37,5 mg; 75 mg

Viên tác dụng kéo dài

Dạng viên tác dụng kéo dài chỉ nên dùng nếu dạng giải phóng ngay không dung nạp hoặc phác đồ dùng liều 2 lần/ngày không tuân thủ được

Tránh dùng cho bệnh nhân có nguy cơ cao loạn nhịp; kiểm soát huyết áp với liều trên 150mg

Theo dõi điện tâm đồ khi dùng liều cao hơn

Không dùng cho các trường hợp:

– Cao huyết áp không kiểm soát được

– Có nhồi máu cơ tim gần đây

– Có nguy cơ cao loạn nhịp tim

– Theo dõi huyết áp tại thời điểm bắt đầu và thường quy trong khi điều trị (đặc biệt khi tăng liều)

– Theo dõi các dấu hiệu suy giảm chức năng tim

– Liều trên 300 mg/ngày chỉ nên dùng khi có sự giám giám sát của chuyên gia

Bảng 2. Các thuốc điều trị trầm cảm ở người lớn

Sử dụng thuốc chống trầm cảm cho các đối tượng bệnh nhân đặc biệt

1. Người trên 65 tuổi:

SSRI là lựa chọn đầu tay do có những ưu thế hơn so với thuốc chống trầm cảm 3 vòng do ít tác dụng phụ hơn, an toàn hơn khi dùng quá liều, ít phải tăng liều; sử dụng 1 lần/ ngày và bệnh nhân tuân thủ tốt hơn. Fluoxetine có thể không được coi là lựa chọn đầu tay trong nhóm bệnh nhân này do cần thời gian dài để có tác dụng, nguy cơ tích lũy thuốc và tương tác với nhiều thuốc. Các tác dụng phụ tiềm tang như gây ngủ, nguy cơ ngã cần đưa vào cân nhắc khi lựa chọn thuốc chống trầm cảm

TCA ( trừ lofepramide) ít phù hợp hơn do tác dụng phụ kháng muscarinic

Do những thay đổi về mức độ nhạy về dược lực học và dược động học , người cao tuổi thường cần thời gian dài hơn để đáp ứng với thuốc chống trầm cam và cũng nhạy cảm hơn với tác dụng phụ. Do đó liệu trình điều trị tối thiểu 6 tuần là cần thiết để đánh giá xem điều trị có hiệu quả hay không.

SSRI tăng nguy cơ xuất huyết dạ dày ruột, đặc biệt ở người rất cao tuổi và người có các yếu tố nguy cơ như tiền sử xuất huyết hoặc sử dụng NSAID, steroid, warfarin. Người già cũng đặc biệt dễ bị hạ natri huyết khi dùng SSRI cũng như hạ huyết áp khi đứng và ngã

Thường cần dùng với liều thấp hơn và khởi đầu với liều thấp hơn so với người trẻ.

Người cao tuổi thường dùng 4 – 5 loại thuốc dẫn tới nguy cơ ý nghĩa đối với tương tác thuốc và tương tác thuốc – bệnh mắc kèm.

2. Trẻ em và thanh thiếu niên < 18 tuổi:

Không chỉ định dùng thuốc chống trầm cảm cho trẻ em hoặc thanh niên trừ phi kết hợp với liệu pháp tâm lý. Hướng dẫn mới đây của NICE khuyến cáo thanh thiếu niên dưới 18 tuổi chỉ kê thuốc chống trầm cảm khi có sự chẩn đoán và đánh giá bởi Bác sĩ chuyên khoa tâm thần Nhi khoa. Trong trường hợp cần thiết, phải có sự trao đổi và tư vấn đầy đủ của Bác sĩ chuyên khoa tâm thần Nhi khoa .

NICE khuyến cáo cần bắt đầu điều trị thuốc chống trầm cảm đồng thời với liệu pháp tâm lý ở người trẻ mắc trầm ảm mức độ trung bình- nặng.

Fluoxetine là SSRI lựa chọn đầu tay với lợi ích lớn hơn nguy cơ đã được chứng minh. Tại nước Anh, Fluoxetine được cấp phép sử dụng cho trẻ em từ 8 – 18 tuổi điều trị trầm cảm mức độ trung bình- nặng và không đáp ứng với liệu pháp tâm lý sau 4 – 6 đợt trị liệu và khuyến cáo nên dùng thuốc chống trầm cảm kết hợp liệu pháp tâm lý.

Sertraline và citaploram có thể cân nhắc là lựa chọn thứ 2 bởi các bác sỹ chuyên khoa. NICE (National Institute for Health and Care Excellence) loại trừ sử dụng paroxetine, venlafaxine, TCA và St John Wort để điều trị trầm cảm cho nhóm bệnh nhân này

Cần theo dõi chặt chẽ bệnh nhân ở thời điểm bắt đầu điều trị khi liều thay đổi đối với các hành vi tự tử, tự làm tổn thương, thái độ thù địch.

3. Sử dụng thuốc khi mang thai và cho con bú

Một điều rất quan trọng là sức khỏe tâm thần của người mẹ phải được điều trị phù hợp. Thuốc chống trầm ảm có thể dùng khi mang thai nhưng cần cân nhắc giữa giữa lợi ích và nguy cơ cho từng trường hợp cụ thể. Điều trị cần bắt đầu theo chỉ dẫn của chuyên gia.

~ 10% phụ nữ mang thai gặp tình trạng trầm cảm ở một số thời điểm trong suốt thai kỳ. Thuốc chống trầm cảm có thể được cân nhắc cho PNMT mắc trầm cảm nhẹ nếu họ có tiền sử trầm cảm nặng và các triệu chứng của họ không đáp ứng với liệu pháp tâm lý

Thuốc có nguy cơ gây dị tật thai nhi thấp nhất trong khi mang thai là nhóm TCA (amitriptyline và imipramine) tuy nhiên nhóm này có khuynh hướng gây chết nhiều hơn khi dùng quá liều so với nhóm SSRI.

Trong nhóm SSRI, kinh nghiệm thu được nhiều nhất khi dùng trong giai đoạn mang thai là Sertraline và Fluoxetine, trong đó Sertraline dường như có tiếp xúc với thai nhi ít nhất. Tuy nhiên nếu BN được kê một thuốc SSRI khác, cần phải giám sát cẩn thận để tiếp tục dùng cùng một thuốc SSRI ( ngoại trừ paroxetine) để tránh nguy cơ tái phát. Nguy cơ gây chậm phát triển thai nhi trong tử cung (mặc dù thấp) là cao hơn ở nhóm bệnh nhân trầm cảm nặng chưa được điều trị hơn là các thuốc như SSRI. Do đó người ta khuyên tiếp tục sử dụng thuốc chống trầm cảm trong trường hợp trầm cảm nặng.

Tăng áp phổi dai dẳng ở trẻ sơ sinh được ghi nhận khi sử dụng SSRI sau 20 tuần thai.

Ghi nhận tăng huyết áp khi dùng venlafaxine liều cao cùng với độc tính cao hơn khi dùng quá liều so với SSRI và một số TCA.

Sau khi sinh (cho con bú)

Nhiều trường hợp trầm cảm sau sinh bắt đầu từ trước khi sinh. Có sự tăng ý nghĩa các đợt bệnh mới trong vòng 3 tháng đầu sau sinh.

Trong môi trường hợp cần cân nhắc lợi ích cho mẹ và trẻ sơ sinh so với nguy cơ tiếp xúc với thuốc ở trẻ.

Nồng độ thuốc trong sữa mẹ thấp nhất được ghi nhận với imipramine, nortriptyline và sertraline .

Nồng độ thuốc trong sữa mẹ cao nhất được ghi nhận với citalopram và fluoxetine.

HPFT Drugs Formulary. www.hpft.nhs.uk.

BNF online accessed Feb/ March 2016. www.bnf.org.uk.

Summary of Product Characteristics. www.medicines.org.uk.

Psychotropic Drug Directory 2014, Bazire S., Page Bros Ltd.

The Maudsley Prescribing Guidelines in Psychiatry 12th Edition, Taylor D, Paton C, Kapur S., TJ International Ltd.

National Institute for Clinical Excellence (NICE) CG90 & 91, Depression: the treatment and management of depression in adults, including adults with a chronic physical health problem. October 2009, updated December 2013. https://www.nice.org.uk/guidance/cg90, https://www.nice.org.uk/guidance/cg91

NICE CG 28, Depression in children and young people. Identification and management in primary, community and secondary care. September 2015. https://www.nice.org.uk/guidance/cg2

8?unlid=97982230620163154319 8. NICE CG 192, Antenatal and postnatal mental health: clinical management and service guideline. December 2014. https://www.nice.org.uk/guidance/cg192.

NICE TA 367, Vortioxetine for treating major depressive episodes. December 2015. https://www.nice.org.uk/guidance/ta367.

UK Teratology Information Service (UKTIS). chúng tôi Tel 0344 892 0909

South Essex Partnership Trust (SEPT) Formulary and Prescribing Guidelines; Treatment of depression, updated December 2015; Drug use in older adults, February 2014; Drug use in children and adolescents, September 2015; Antenatal and postnatal prescribing, May 2015. www.sept.nhs.uk.

Central and North West London NHS Foundation Trust, Pharmacological Management of depression (children, adolescents, older adults & adults) guidelines, July 2014. chúng tôi 13.

Lactmed Database. http://toxnet.nlm.nih.gov/newtoxnet/lactmed.htm

Summary of Product Characteristics (SPC) Fluoxetine, Citalopram, Sertraline, Vortioxetine. www.medicines.org.uk

Drugs and Therapeutics Bulletin Vol 54, No3, March 2016. What role for Vortioxetine?

Stockley’s Drug Interactions accessed Sep 2016. www.medicinescomplete.com

Bạn đang đọc nội dung bài viết Rối Loạn Trầm Cảm (Major Depressive Disorder) trên website Missvnuk.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!