MỤC LỤC (TABLE OF CONTENTS)
– Mặc dù các bác sĩ muốn sử dụng các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) để điều trị cho các bệnh nhiễm trùng đặc biệt do vi khuẩn gây ra, nhưng đôi khi các bác sĩ cũng có thể bắt đầu cho sử dụng thuốc kháng sinh mà không cần phải đợi các kết quả xét nghiệm nhận dạng vi khuẩn cụ thể. – Vi khuẩn có thể phát triển tính năng đề kháng đối với tác dụng của các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh). – Sử dụng thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) theo chỉ dẫn, thậm chí sau khi các triệu chứng đã biến mất, là rất cần thiết để chữa khỏi hẳn sự nhiễm trùng và ngăn ngừa sự phát triển tính năng đề kháng trong các vi khuẩn. – Các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) có thể có tác dụng phụ, chẳng hạn như đau dạ dày, tiêu chảy, và nhiễm nấm men âm đạo ở phụ nữ (vaginal yeast infections). – Một vài người bị dị ứng với một số loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh).
Kháng sinh (kháng khuẩn) là các loại thuốc có nguồn gốc hoàn toàn hoặc một phần từ vi khuẩn hoặc các loại nấm mốc, và được dùng để chữa trị các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra. Chúng không có tác dụng chống lại các bệnh nhiễm trùng do virút và nấm gây ra. Các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) có tác dụng tiêu diệt các loại vi sinh vật hoặc làm ngưng quá trình sản sinh của chúng, cho phép hệ thống phòng thủ tự nhiên của cơ thể loại bỏ các loại vi sinh vật này.
Mỗi loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) chỉ có tác dụng chống lại một số loại vi khuẩn nhất định. Trong việc lựa chọn loại thuốc kháng sinh để chữa trị cho người bị nhiễm trùng, các bác sĩ sẽ dự đoán loại vi khuẩn có khả năng gây ra bệnh. Ví dụ, một số bệnh nhiễm trùng chỉ do một số loại vi khuẩn nhất định gây ra. Nếu như một loại thuốc kháng sinh được dự đoán là có tác dụng chống lại tất cả các loại vi khuẩn, thì không cần thiết phải xét nghiệm thêm nữa. Nếu tình trạng nhiễm trùng có thể do nhiều loại vi khuẩn khác nhau hoặc một loại vi khuẩn gây ra mà được dự đoán là không bị ảnh hưởng bởi thuốc kháng sinh, thì xét nghiệm sẽ được yêu cầu thực hiện để xác định các loại vi khuẩn gây ra tình trạng nhiễm trùng từ các mẫu máu, nước tiểu, hay mô lấy từ bệnh nhân đó. Các loại vi khuẩn gây nhiễm trùng này sau đó được thử nghiệm tính nhạy cảm với các loại thuốc kháng sinh khác nhau. Kết quả của các xét nghiệm này thường mất từ một đến hai ngày và do đó không thể chỉ dẫn sự lựa chọn ban đầu về việc sử dụng thuốc kháng sinh.
Các loại kháng sinh (thuốc trụ sinh) có hiệu quả trong phòng thí nghiệm thì không nhất thiết sẽ có tác dụng đối với người bị nhiễm bệnh. Hiệu quả của việc điều trị dựa vào mức độ thuốc được hấp thụ vào máu, số lượng thuốc đến được những nơi bị nhiễm trùng, và tốc độ cơ thể bài tiết thuốc, các yếu tố này khác nhau ở từng người, tùy thuộc vào các loại thuốc khác nhau đang dùng, sự hiện diện của một rối loạn khác, và độ tuổi của người đó. Trong việc lựa chọn thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh), các bác sĩ cũng xem xét đến tính chất và mức độ nguy hiểm của tình trạng nhiễm trùng, khả năng gây ra các tác dụng phụ, khả năng gây dị ứng và các phản ứng nghiêm trọng khác của thuốc và giá cả của thuốc.
Sự kết hợp các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) đôi khi cần thiết để điều trị các trường hợp sau:
– Đối với những bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng, đặc biệt trong suốt những ngày đầu khi mà sự ảnh hưởng của thuốc kháng sinh đối với vi khuẩn chưa được biết rõ. – Một số tình trạng nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra mà phát triển một cách nhanh chóng tính năng đề kháng một loại kháng sinh đơn lẻ. – Các bệnh nhiễm trùng do nhiều loại vi khuẩn gây ra nếu như mỗi loại vi khuẩn bị ảnh hưởng bởi một loại kháng sinh khác nhau.
Bệnh lậu (Gonorrhea) lây truyền một cách dễ dàng và có thể dẫn đến tình trạng vô sinh ở nam và nữ, nếu không được chữa trị. Các loại thuốc kháng sinh có thể ngăn chặn được bệnh nhiễm trùng này.
Các triệu chứng: Các triệu chứng thông thường là cảm giác đau rát khi đi tiểu và chảy mủ, nhưng thường không có các triệu chứng ban đầu. Sau đó, sự nhiễm trùng có thể gây phát ban ở da hoặc lan truyền đến các khớp và máu.
Ở Nam Giới: chảy mủ ở dương vật, sưng tinh hoàn.
Ở Phụ Nữ: Chảy mủ ở âm đạo, đau khung chậu, chảy máu tử cung (thỉnh thoảng, bất thường, và với số lượng nhỏ). Các triệu chứng có thể nhẹ và dễ bị nhầm lẫn với tình trạng nhiễm trùng đường tiết niệu hoặc nhiễm trùng âm đạo.
Đa số bệnh nhân không chú ý đến các triệu chứng ban đầu của bệnh giang mai (syphilis). Nếu không được chữa trị, căn bệnh có thể dẫn đến tình trạng bại liệt, mù, và tử vong. Bệnh giang mai có thể được chữa trị bằng các loại thuốc kháng sinh.
Các Dấu Hiệu và Các Triệu Chứng: Dấu hiệu ban đầu thường là cảm giác khó chịu gây chú ý và kéo dài ở khu vực bộ phận sinh dục hoặc hậu môn. Căn bệnh này lây truyền bằng việc tiếp xúc trực tiếp khi bị cảm giác khó chịu này. Sau đó, có thể xuất hiện tình trạng phát ban ở lòng bàn chân, lòng bàn tay, hoặc những phần khác của cơ thể (xem hình), cũng như những tuyến bị sưng, sốt, rụng tóc, hoặc cảm giác mệt mỏi. Ở giai đoạn cuối, các triệu chứng phát xuất từ sự hủy hoại các cơ quan như tim, não, gan, dây thần kinh, và mắt.
Chlamydia là một chứng bệnh lây truyền qua đường sinh dục phổ biến mà có thể dẫn đến tình trạng vô sinh nếu không được chữa trị. Chứng bệnh này có thể biến mất một cách nhanh chóng nếu sử dụng thuốc kháng sinh. Nhưng chứng bệnh này thường ra đi âm thầm bởi vì các triệu chứng thường không rõ ràng và thường không xuất hiện. Vi khuẩn Chlamydia cũng có thể lây nhiễm cho trực tràng và cổ họng.
Các Triệu Chứng ở Nam Giới: Cảm giác rát và ngứa ở đầu dương vật, chảy mủ, và đi tiểu bị đau.
Các Triệu Chứng ở Phụ Nữ: Ngứa âm đạo, chảy mủ mà có thể có mùi, bị đau khi quan hệ tình dục, đi tiểu bị đau.
Bệnh Trichomoniasis gây ra bởi một loại ký sinh trùng mà lây truyền qua tiếp xúc tình dục. Chứng bệnh này có thể được chữa khỏi bằng các loại thuốc do bác sĩ kê toa.
Các Dấu Hiệu và Các Triệu Chứng ở Nam Giới: Đa số đàn ông không có các triệu chứng rõ ràng. Một số nam giới phát triển tình trạng chảy mủ nhẹ hoặc cảm giác đau rất nhẹ khi đi tiểu.
Các Dấu Hiệu và Các Triệu Chứng ở Phụ Nữ: Phụ nữ có thể phát triển tình trạng chảy mủ màu vàng xanh nặng mùi, ngứa âm đạo, hoặc cảm giác đau khi quan hệ tình dục hoặc đi tiểu. Các triệu chứng thường bắt đầu từ 5 đến 28 ngày sau khi nhiễm ký sinh trùng này.
Bản thân nó không phải là một chứng bệnh truyền nhiễm qua đường sinh dục, bệnh viêm khung xương chậu (pelvic inflammatory disease – PID) là một biến chứng nghiêm trọng của các chứng bệnh truyền nhiễm qua đường sinh dục mà không được chữa trị, đặc biệt là bệnh chlamydia và bệnh lậu. Nó xảy ra khi vi khuẩn lây nhiễm đến tử cung và các cơ quan sinh sản khác của phụ nữ. Điều trị kịp thời thì rất cần thiết để ngăn ngừa sự tổn thương đến khả năng sinh sản của phụ nữ.
Các Dấu Hiệu và Các Triệu Chứng: Đau vùng bụng dưới, sốt, chảy mủ bất thường, bị đau khi quan hệ tình dục, bị đau khi đi tiểu, và chảy máu tử cung (thỉnh thoảng, bất thường, và với số lượng nhỏ). Thường không có các dấu hiệu cảnh báo.
Bệnh Lyme là một chứng bệnh do vi khuẩn, gây ra bởi một loại vi khuẩn được gọi là “spirochete”, mà có thể lây truyền cho người khi bị các loại ve bị nhiễm khuẩn (Ixodes scapularis và Ixodes pacificus) cắn phải. Tên thật của loại vi khuẩn này ở Hoa Kỳ là Borrelia burgdorferi. Ở Châu Âu, có một loại vi khuẩn khác, gọi là Borrelia afzelii, cũng gây ra bệnh Lyme.
Chùm vi khuẩn rất nhỏ này có tên là Staphylococcus aureus kháng methicillin (methicillin-resistant Staphylococcus aureus – MRSA), được nhìn qua kính hiển vi. Chủng loại này thuộc nhóm vi khuẩn “staph” phổ biến gây nhiễm trùng ở các phần khác nhau của cơ thể – bao gồm da, phổi, và những khu vục khác. MRSA thỉnh thoảng được gọi là “siêu khuẩn – superbug” bởi vì nó có khả năng đề kháng lại nhiều loại thuốc kháng sinh. Mặc dù đa số tình trạng nhiễm trùng do MRSA không nghiêm trọng, nhưng một vài tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa đến tính mạng.
Các nhiễm trùng do MRSA có thể rất giống các nhiễm trùng da thông thường do vi khuẩn staph: một khối u đỏ nhỏ, mụn, hoặc đinh nhọt. Khu vực bị nhiễm có thể bị đỏ, đau nhức, bị sưng, hoặc có cảm giác ấm khi chạm vào. Mủ hoặc các chất dịch khác có thể chảy ra từ vết thương. Đa số các nhiễm trùng da do MRSA thường là nhẹ, nhưng chúng có thể thay đổi, và trở nên ăn sâu vào các mô và trở nên nghiêm trọng hơn.
Sâu bọ cắn, phát ban, và các tình trạng về da khác có thể bị nhầm lẫn với MRSA bởi vì các triệu chứng có thể giống nhau: bị đỏ, sưng, cảm giác ấm, hoặc bị đau. Các bác sĩ phòng cấp cứu (ER doctors) thường hỏi những bệnh nhân mà nhập viện với một vết nhện cắn xem họ có thật sự nhìn thấy con nhện đó không, bởi vì những “vết cắn” này thường hóa ra là do MRSA. Khi một tình trạng nhiễm trùng da lan rộng ra hoặc không cải thiện sau 2-3 ngày dùng thuốc kháng sinh, nó có thể là do MRSA.
MRSA có thể dẫn đến tình trạng viêm tế bào (Cellulitis), một tình trạng nhiễm trùng ở những lớp da và những lớp mô sâu bên dưới. Trên bề mặt, da có màu hồng hoặc đỏ, giống như vết cháy nắng, và có thể có cảm giác ấm, đau, và sưng lên. Viêm tế bào có thể lan rộng ra rất nhanh trong vòng vài giờ.
MRSA thỉnh thoảng có thể gây ra một tình trạng nhiễm trùng sâu hơn được gọi là áp xe (abscess), là một tình trạng tích tụ mủ mà có thể nằm dưới da. Một tình trạng nhiễm trùng da nhẹ mà không được chữa trị hợp lý và kịp thời, có thể phát triển thành chứng áp xe. Loại nhiễm trùng này có thể đòi hỏi phẫu thuật xả mủ và dùng thuốc kháng sinh để chữa trị.
MRSA có thể lây truyền bằng cách tiếp xúc trực tiếp với người bị nhiễm hoặc những vật bạn chạm vào. Các trường hợp trợ giúp việc lây lan MRSA bao gồm: tiếp xúc da; các vết cắt hoặc trầy xước trên da; dùng chung vật dụng vệ sinh cá nhân như dao cạo và khăn tắm; và tiếp xúc với những vật dụng nhiễm vi khuẩn bao gồm nắm cửa và dụng cụ thể dục. Có khoảng một trong 100 người mang vi khuẩn trên người, nhưng không trở bệnh.
Những người mà gần đây tiếp nhận phẫu thuật hoặc nhập viện có nhiều nguy cơ phát triển MRSA. Điều này cũng được tìm thấy ở những người cao tuổi, những người sống trong những nhà dưỡng lão, và những người có hệ thống miễn dịch suy yếu. Một chứng bệnh mãn tính như tiểu đường, ung thư, hoặc HIV sẽ làm gia tăng cơ hội bệnh nhân mắc phải tình trạng nhiễm trùng khó trị này. ( Trở về đầu trang )
Tính năng đề kháng thuốc kháng sinh (antibiotic resistance) là khả năng của một vi sinh vật chống lại những ảnh hưởng của một loại thuốc kháng sinh. Tính năng đề kháng thuốc kháng sinh tiến hóa một cách tự nhiên theo sự chọn lọc tự nhiên (natural selection) bằng sự đột biến gen ngẫu nhiên, nhưng nó cũng có thể được thực hiện bằng việc gây sức ép tiến hóa lên một quần thể vi sinh vật. Sau khi loại gen này được tạo ra, vi khuẩn có thể truyền thông tin di truyền theo chiều ngang (giữa các vi khuẩn) bằng cách trao đổi plasmit (plasmid: một mẫu DNA xoắn kép mạch vòng mà có thể nhân đôi trong tế bào hoàn toàn độc lập với DNA tạo nên nhiễm sắc thể. Plasmit thường được tìm thấy ở vi khuẩn và được sử dụng trong nghiên cứu DNA tái tổ hợp để di chuyển gen giữa các tế bào). Nếu một loại vi khuẩn mang một số gen có tính đề kháng, nó được gọi là đa đề kháng, hoặc gọi nôm na là, siêu khuẩn. Tác dụng kháng sinh là một một áp lực của môi trường; do đó những loại vi khuẩn mà có sự đột biến gen sẽ cho phép chúng tồn tại và tiếp tục sản sinh. Sau đó chúng sẽ di truyền đặc điểm này cho thế hệ sau, mà sẽ là một thế hệ có tính năng đề kháng đầy đủ.
Vi khuẩn, cũng giống như tất cả mọi sinh vật sống, thay đổi theo thời gian để thích ứng với những thay đổi của môi trường. Do việc sử dụng tràn lan và lạm dụng thuốc kháng sinh, nên vi khuẩn thường xuyên tiếp xúc với các loại thuốc này. Mặc dù nhiều vi khuẩn sẽ bị tiêu diệt khi tiếp xúc với kháng sinh, nhưng cũng có một vài loại phát triển tính năng đề kháng lại tác dụng của các loại thuốc. Ví dụ, cách đây 50 năm, vi khuẩn gram-dương Staphylococcus aureus (nguyên nhân phổ biến gây ra các nhiễm trùng da) rất nhạy cảm với penicillin, nhưng theo thời gian, các chủng vi khuẩn này có khuynh hướng phát triển một loại enzyme có khả năng phân hủy penicillin, làm cho thuốc mất tác dụng. Các nhà nghiên cứu đối phó lại bằng cách phát triển một dạng penicillin mà loại enzyme này không thể phân hủy, nhưng sau một vài năm, vi khuẩn đã thích ứng và trở nên đề kháng lại thuốc penicillin được cải tiến này (tình trạng lờn thuốc). Các loại vi khuẩn khác cũng đã phát triển tính năng đề kháng lại các loại kháng sinh.
Nghiên cứu y học sẽ tiếp tục phát triển các loại thuốc để chống vi khuẩn. Nhưng các bệnh nhân và các bác sĩ có thể giúp ngăn ngừa sự phát triển tính năng đề kháng của vi khuẩn. Dùng thuốc kháng sinh chỉ khi nào thực sự cần thiết mới có thể giúp ích. Đó là, mọi người nên dùng các loại thuốc kháng sinh chỉ khi bị nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra, không nên dùng cho những trường hợp nhiễm bệnh do các loại virut như cảm lạnh hoặc cảm cúm gây ra. Ngoài ra, việc dùng thuốc kháng sinh được hoàn tất theo thời gian quy định cũng giúp hạn chế được sự phát triển tính năng đề kháng ở vi khuẩn. ( Trở về đầu trang )
Đối với các trường hợp nhiễm trùng nặng do vi khuẩn, ban đầu các loại thuốc kháng sinh thường được tiêm (thường vào tĩnh mạch nhưng đôi khi tiêm vào cơ). Khi tình trạng nhiễm trùng được kiểm soát, các loại thuốc kháng sinh có thể dùng để uống. Đối với các trường hợp nhiễm trùng ít nghiêm trọng hơn, các loại thuốc kháng sinh có thể được uống bằng miệng ngay từ đầu.
Kháng sinh cần phải được dùng cho đến khi vi khuẩn lây nhiễm bị loại bỏ hoàn toàn ra khỏi cơ thể, mà có thể là vài ngày sau khi các triệu chứng biến mất. Vì vậy, người bệnh phải dùng thuốc kháng sinh theo toàn bộ thời gian theo quy định cho dù có xuất hiện các triệu chứng hay không. Các loại thuốc kháng sinh hiếm khi được bác sĩ cho sử dụng ít hơn 5 ngày. (Một trường hợp ngoại lệ là một số bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu không phức tạp). Việc ngưng dùng thuốc quá sớm có thể dẫn đến tình trạng nhiễm trùng bị tái lại hoặc sự phát triển tính năng đề kháng của vi khuẩn đối với các loại thuốc kháng sinh.
Bác sĩ, y tá hoặc dược sĩ có thể giải thích cách thức sử dụng thuốc kháng sinh như thế nào và các tác dụng phụ mà nó có thể gây ra. Một vài loại thuốc kháng sinh phải được uống trong lúc dạ dày còn trống (chưa ăn). Một vài loại khác có thể được dùng cùng với thức ăn. Metronidazole, là một loại thuốc kháng sinh thông dụng, nó gây ra phản ứng khó chịu với rượu. Ngoài ra, một số thuốc kháng sinh có thể tương tác với các loại thuốc khác mà bệnh nhân đang dùng, có khả năng làm giảm hiệu quả hoặc làm tăng tác dụng phụ của thuốc kháng sinh hoặc các loại thuốc đó. Một số loại thuốc kháng sinh làm cho da bị nhạy cảm với ánh sáng mặt trời.
Thuốc kháng sinh đôi khi được dùng để ngăn ngừa các bệnh nhiễm trùng (gọi là phép phòng bệnh). Các thuốc kháng sinh có thể được dùng cho những người đã tiếp xúc với người bị bệnh viêm màng não để ngăn ngừa bệnh viêm màng não phát triển. Một vài người có van tim bất thường hoặc van tim nhân tạo nên dùng thuốc kháng sinh trước khi làm các thủ thuật về nha khoa và các tiến trình phẫu thuật để ngăn ngừa vi khuẩn lây nhiễm đến các van bị tổn thương hoặc các van nhân tạo (các tiến trình đó có thể cho phép vi khuẩn đi vào cơ thể). Những người tiến hành phẫu thuật với nguy cơ bị lây nhiễm cao (như là thủ thuật chỉnh hình hoặc phẫu thuật đường ruột quan trọng) có thể dùng thuốc kháng sinh ngay lập tức trước khi làm phẫu thuật. Để có được hiệu quả và tránh sự phát triển tính năng đề kháng của vi khuẩn, các loại thuốc kháng sinh phòng bệnh chỉ nên dùng trong một thời gian ngắn. Thuốc kháng sinh cũng có thể được dùng cho những người có hệ thống miễn dịch suy yếu, chẳng hạn như những người bị bệnh bạch cầu, những người đang hóa trị ung thư, hoặc những người bị bệnh AIDS, bởi vì những người như thế rất dễ bị nhiễm trùng nghiêm trọng. Họ có thể cần phải dùng thuốc kháng sinh trong một thời gian dài. ( Trở về đầu trang )
Có một số dụng cụ truyền thuốc kháng sinh khá đơn giản đủ để bệnh nhân và các thành viên trong gia đình họ có thể học cách tự sử dụng tại nhà. Trong những trường hợp khác, một y tá sẽ đến nhà để truyền mỗi liều thuốc. Trong cả hai trường hợp, người bệnh có thể được theo dõi cẩn thận để đảm bảo rằng thuốc kháng sinh đang được sử dụng đúng cách và để quan sát khả năng xảy ra các biến chứng và các tác dụng phụ.
Các tác dụng phụ thường gặp của thuốc kháng sinh bao gồm đau bụng, tiêu chảy, và ở phụ nữ, là nhiễm trùng men âm đạo (vaginal yeast infection). Một vài tác dụng phụ nghiêm trọng hơn, tùy thuộc vào loại thuốc kháng sinh, có thể làm suy yếu các chức năng của thận, gan, tủy xương, hoặc các cơ quan khác. Xét nghiệm máu đôi khi cũng được sử dụng để kiểm tra những ảnh hưởng lên thận và các chức năng nội tạng khác.
Một số người dùng thuốc kháng sinh, đặc biệt là cephalosporins, clindamycin, hoặc fluoroquinolones, sẽ phát triển chứng viêm kết tràng, một tình trạng viêm sưng ruột già. Loại viêm kết tràng này là do một độc tố do loại vi khuẩn Clostridium difficile sản sinh, mà loại vi khuẩn này đề kháng với nhiều loại thuốc kháng sinh và chúng sẽ sinh trưởng một cách không kiểm soát trong ruột khi các vi khuẩn bình thường khác trong ruột đã bị tiêu diệt bởi các loại thuốc kháng sinh.
Các loại thuốc kháng sinh cũng có thể gây ra các phản ứng dị ứng. Phản ứng dị ứng nhẹ bao gồm một tình trạng phát ban (mề đay) gây ngứa hoặc thở khò khè nhẹ. Các phản ứng dị ứng nghiêm trọng (phản ứng phản vệ – anaphylaxis) có thể đe dọa đến tính mạng và thường bao gồm sưng cổ họng, khó thở, và huyết áp thấp.